- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Thông liên thất
Thông liên thất
Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điếm cơ bản trong chẩn đoán
Nếu lỗ thông nhỏ hoặc vừa thì không có triệu chứng cho đến tuổi trưởng thành.
Tiếng thổi toàn tâm thu độ II-VI/VI lớn nhất ở bờ trái xương ức, thường kết hợp với rung miu.
Điện tâm đồ có thể cho thấy dày thất trái hoặc thất phải nếu shunt đã đổi chiều. Chụp X quang cho thấy các mạch máu phổi tăng đậm. Siêu âm Doppler xác định chẩn đoán.
Nhận định chung
Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp. Lịch sử tự nhiên tiếp sau và giải phẫu bệnh tùy thuộc vào kích thước lỗ thông và độ lớn của shunt trái - phải. Lỗ thông lớn thường kết hợp với suy thất trái sớm. Shunt trái phải mức độ vừa phải đã tồn tại từ lâu có thể dẫn đến bệnh mạch máu phổi và suy thất phải. Nhiều trường hợp lỗ thông liên thất tự đóng kín từ thời trẻ nhỏ.
Các dấu hiệu và triệu chứng
Bệnh cảnh lâm sàng tùy thuộc vào kích thước lỗ thông và sự hiện diện hoặc không có tăng sức cản mạch máu phổi. Những shunt lớn thường kết hợp với tiếng thổi toàn tâm thu to, thô ráp ở khoang liên sườn 3 - 4 trái dọc theo xương ức, và trong một số trường hợp, tiếng thổi giữa tâm trương và tiếng thứ ba nghe thấy ở mỏm. Các trường hợp shunt nhỏ hơn có thể chỉ sinh ra một tiếng thổi đầu tâm thu hoặc tiếng thổi hình thoi. Rung miu tâm thu cũng thường gặp. Những dấu hiệu lâm sàng của tăng áp phổi thường có giá trị hơn là bản thân tiếng thổi. Lỗ thông cao có thể kết hợp với hở van động mạch chủ do sa các lá van.
Điện tâm đồ và X quang ngực
Điện tâm đồ có thể bình thường hoặc có dầy thất phải, thất trái hoặc cả hai thất tùy thuộc vào kích thước lỗ thông và sức cản mạch máu phổi. Khi cảc shunt lớn, tâm thất phải hoặc tâm thất trái (hoặc cả hai), nhỉ trái và các động mạch phổi to ra, trên phim X quang thấy các mạch máu phổi tiến triển, sẽ thấy động mạch phổi lớn và các mạch phổi giảm ở vùng xung quanh.
Các thăm dò chẩn đoán
Siêu âm có thể cho biết kích thước các buồng tim và có thể phát hiện được cả lỗ thông. Siêu âm Doppler có thể đánh giá độ lớn của shunt và áp lực động mạch phổi. Cộng hưởng từ hạt nhân có thể cho phép nhìn thấy lỗ thông, trong khi đó các thăm dò phóng xạ hạt nhân cho phép chẩn đoán xác định tỷ lệ dòng máu phổi/đại tuần hoàn. Thông tim cho phép chẩn đoán xác định ở tất cả các trường hợp kể cả những tổn thương không đáng kể. Nó cũng là một thăm dò có thể đo sức cản mạch máu phổi.
Tiên luợng và điều trị
Bệnh nhân chỉ có tiếng thổi tâm thu điển hình có tuổi thọ binh thường trừ khi có mối đe dọa viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn. Viêm nội tâm mạc thường gặp ở những trường hợp shunt nhỏ hơn. Dự phòng bằng kháng sinh là bắt buộc. Với các trường hợp shunt lớn, suy tim ứ trệ có thể phát triển ngay những năm đầu của cuộc sống và ít khi sống tới 40 tuổi. Đảo chiều shunt xảy ra trong khoảng 25% các trường hợp, và sinh ra hội chứng Eisenmenger.
Những shunt nhỏ (tỷ lệ dòng máu phổi/đại tuần hoàn < 1,5 ) ở những bệnh nhân không có triệu chứng thì không cần phải phẫu thuật. Những lỗ thông sinh ra luồng shunt lớn hơn được sửa chữa để dự phòng bệnh mạch máu phổi không thể phục hồi hoặc suy tim muộn. Khi có tăng áp lực phổi nặng (áp lực động mạch phổi tâm thu > 85mmHg và shunt từ trái sang phải nhỏ, nguy cơ tử vong do phẫu thuật ít nhất là 50%. Nếu như shunt đã đổi chiều thì chống chỉ định phẫu thuật. Nếu cần phải phẫu thuật do suy tim nặng ở trẻ nhỏ vì có shunt trái - phải lớn thì hiện nay đóng kín sớm lỗ thông là thủ thuật thích hợp. Tỷ lệ tử vong khi phẫu thuật từ 2 - 3% cho lần đầu. Một số lỗ thông (có thể tới 40%) tự đóng kín lại. Bởi vậy phẫu thuật nên hoãn lại cho đến khi trẻ lớn trừ khi bệnh quá nặng hoặc tăng áp lực phổi tiến triển. Hiện nay trong một số trường hợp người ta có thể vá lỗ thông liên thất qua đường da.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm màng ngoài tim co thắt
X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.
Nhồi máu cơ tim cấp
Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.
Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất
Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.
Điều trị tăng Cholesterol LDL
Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.
Bệnh cơ tim giãn
Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.
Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất
Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.
Cơ chế rối loạn nhịp tim
Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.
Lựa chọn và theo dõi các van tim giả
Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.
Hở van động mạch chủ
Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.
Bệnh tim và phẫu thuật
Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim
Đánh giá ngất
Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Còn ống động mạch
Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.
Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp
Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.
Triglycerid máu cao
Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính
Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim
Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô.
Nhịp nhanh thất và rung thất
Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.
Bệnh tăng huyết áp
Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.
Viêm màng ngoài tim
Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Hẹp van động mạch chủ
Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.
Bệnh cơ tim phì đại
Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.
Các biến chứng của nhồi máu cơ tim
Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.
Phân ly nhĩ thất và rối loạn dẫn truyền trong thất
Tiên lượng của blốc trong thất nói chung là tùy thuộc vào bệnh tim cơ sở. Ngay cả trong blổc hai phân nhanh, tỷ lệ blôc tim hoàn toàn huyền bí hoặc tiến triển tới hình thái blốc này rất thấp và tạo nhịp thường là không xác đáng.