- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Nhịp nhanh thất và rung thất
Nhịp nhanh thất và rung thất
Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhịp nhanh thất
Nhận định chung
Nhịp nhanh thất được định nghĩa là các ngoại tâm thu thất từ 3 hoặc nhiều hơn liên tiếp. Tần số thông thường là 160 đến 240 chu kỳ/phút và tương đối đều nhưng không đều bằng nhịp nhanh nhĩ. Ấn xoang cảnh không có tác dụng. Việc phân biệt với nhịp nhanh trên thất có dẫn truyền lệch hướng có thể rất khó và đã được thảo luận, cơ chế thường gặp là vào lại, nhưng hoạt động nảy cò bất thường có thể xảy ra. Tim nhanh thất có thể là không bền bỉ (cơn kéo dài < 30 giây) hoặc bèn bỉ nó có thể không có biến chứng hoặc kết hợp với ngất hoặc những triệu chứng nhẹ của tưới máu não bị tổn thương.
Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.
Xoắn đỉnh, một hình thái của tim nhanh thất trong đó hình thái của QRS rất thay đổi, nó có thể xảy ra tự phát hoặc sau khi quinóin, hoặc bất kỳ thuốc nào kéo dài khoảng QT. Nó có tiên lượng xấu. Trong bối cảnh không cấp tính hầu hết các bệnh nhân bị nhịp nhanh thất đều có bệnh tim đã biết hoặc đã phát hiện và dấu hiệu nhanh thất là một dấu hiệu tiên lượng không tốt.
Điều trị
(1) Nhịp nhanh thất:
Điều trị nhịp nhanh thất cấp tính được quyết định bởi mức độ xấu của huyết động và thời gian kéo dài của loạn nhịp. Điều trị tim nhanh thất trong nhồi máu cơ tim cấp đã được thảo luận, ở những bệnh nhân khác nếu có hạ huyết áp nặng, suy tim hoặc đau tắt ngực thì tiến hành sốc điện đồng bộ ngay với liều điện 100 - 360J. Nếu bệnh nhân chịu được sự rối loạn nhịp thì lidocain 1mg/kg tiêm một liều tĩnh mạch có thể cắt được cơn. Nếu bệnh nhân ổn định và lidocain không có hiệu quả, tiêm tĩnh mạch procainamid 100mg, tiêm tĩnh mạch chậm cứ 5 phút/lần (cho tới tổng liều 1000mg) sau đó là truyền tĩnh mạch 20 - 80 µg/kg/phút hoặc hretylium, 5mg/kg, tĩnh mạch trong 3 - 5 phút, tiêm lặp lại sau 20 phút nếu cần thiết, sau đó là truyền tĩnh mạch liều 1- 2 mg/phút có thể đạt được hiệu quả. Có thể cắt cơn nhịp nhanh thất bằng tạo nhịp vượt tần số thất và phương pháp này rất tốt khi nhịp nhanh thất tái phát.
Amiodaron sử dụng đúng cách để đạt được nồng độ điều trị, nhưng phương pháp đổ đày đường tĩnh mạch hoặc đường uống 1000 - 2000mg/ngày có thể dẫn đến đáp ứng điều trị trong 24 - 72 giờ hoặc có thể sớm hơn ở những trường hợp nhịp nhanh thất khó điều trị.
(2) Nhịp nhanh thất tái phát mạn tính:
Việc điều trị nhịp nhanh thất không bền bỉ, hay tái phát (những đoạn có ba hoặc nhiều ngoại tâm thu thất liên tục kéo dài dưới 30 giây), không có triệu chứng vẫn còn được thảo luận. Ớ những người không có bệnh tim thực tổn, rối loạn nhịp này không kết hợp rõ rệt với tiên lượng xấu, trái lại ở những bệnh nhân có bệnh tim thực tổn thì đó là một chỉ điểm có tỉ lệ tử vong tâng do bệnh tim cơ sở và trong một số nghiên cứu, do rối loạn nhịp, liều điều trị chống rối loạn nhịp ở những bệnh nhân này với nhịp nhanh thất không bền bỉ có đem lại lợi ích không, điều này vẫn chưa rõ ràng nhưng việc điều trị vẫn được tiến hành, ở những bệnh nhân bị bệnh mạch vành sau nhồi máu cơ tim, nguy cơ xuất hiện tim nhanh thất có triệu chứng hoặc chết đột ngột có thể được phân tầng với lợi ích vừa phải. Khi không có các điện thế muộn trên điện tâm đồ trung bình các tín hiệu được ghi bằng phương pháp không chảy máu và có phân số tống máu thất trái bình thường sẽ gợi ý một tiên lượng tốt, tuy nhiên nhiều bệnh nhân có các điện thế muộn và rối loạn chức năng thất trái cũng sẽ không trở nên có triệu chứng, và các điện thế muộn ít có giá trị tiên lượng ở những bệnh nhân không có bệnh mạch vành, ở nhóm bệnh nhân sau cần phải có một chiến lược để tiến hành kích thích thất. Những bệnh nhân có tim nhanh thất bền bỉ gây ra phải được điều trị. Theo các tài liệu hiện có, việc điều trị nhịp nhanh thất không bền bỉ nên được giới hạn cho những bệnh nhân có triệu chứng hoặc có rối loạn nhịp thất do gây ra. Các thuốc nhóm la thường là thuốc lựa chọn đầu tiên, các thuốc nhóm Ib ít có hiệu quả và các thuốc nhóm Ic có nguy cơ cao gây ra rối loạn nhịp. Thuốc chẹn beta đôi khi có hiệu quả. Những tài liệu mới đây thích sử dụng các thuốc nhóm III, sotalol hoặc amiodaron bởi vì chúng ít gây loạn nhịp hơn và nhất là amiodaron đã có hiệu quả cao trong một số nghiên cứu. Hiệu quả điều trị được đánh giá bằng theo dõi điện tâm đồ di động hoặc tiến hành lại các thăm dò kích thích. Điện tâm đồ trung bình tín hiệu không có tác dụng trong theo dõi điều trị. Những bệnh nhân bị nhịp nhanh thất bền bỉ có hoặc không có triệu chứng cần phải được điều trị trấn áp có hiệu quả. Để xây dựng được một chế độ điều trị, rối loạn nhịp phải xuất hiện tự phát hoặc được gây ra bằng kích thích có chương trình trong phòng thăm dò điện sinh lý. Nghiên cứu ESVEM mới đây (thăm dò điện sinh lý đối chứng với theo dõi liên tục điện tâm đồ) chứng tỏ rằng hoặc điều trị là thích hợp hoặc không phải là tốt nhất. Các thuốc chống loạn nhịp có thể được sử dụng lần lượt để xác định thuốc nào dự phòng được cảm ứng điện của tim nhanh thất trong phòng thí nghiệm hoặc ngăn chặn được sự xuất hiện của nó trong khi theo dõi liên tục có thể có hiệu quả hơn trong cơ thể khi điều trị lâu dài. Một số thuốc như sotalol và amiodaron có thể vẫn có hiệu quả ngay cả khi rối loạn nhịp không được ngăn ngừa đầy đủ trong phòng thí nghiệm. Điều này có thể thấy trong một số trường hợp, đặc biệt là với amiodaron, nổi lên là thuốc rất có hiệu quả đối với nhóm bệnh nhân được chọn lọc này. Khả năng làm nặng lên các rối loạn nhịp thất của tất cả các thuốc chống loạn nhịp ở một số bệnh nhân cần được lưu tâm khi bắt đầu điều trị và trong quá trình theo dõi điều trị.
Những bệnh nhân có tim nhanh thất bền bỉ không đáp ứng với hoặc không dung nạp các thuốc chóng loạn nhịp là đối tượng để cấy máy chống rung tim tự động (AICD), nó có thể được chương trình hóa để nhận biết được cơn tim nhanh ở trên tần số đã định trước và phóng ra một nhát sốc sau một giai đoạn tiềm tàng đã định trước (đủ để nạp điện và nhiều bệnh nhân bị mất ý thức), vì mối nguy cơ và khả năng dung nạp kém với các thuốc chống loạn nhịp, nên nhiều chuyên gia đã sử dụng các thiết bị này sớm hơn ở những bệnh nhân bị tim nhanh thất có triệu chứng, nhưng tỷ lệ tử vong và biến chứng thực sự vẫn vào khoảng 5%, mặc dù với kiểu điện cực qua đường tĩnh mạch hiện có tỷ lệ này đã giảm xuống, giá thành của chúng cao (trên 20.000 USD) và những rối loạn tinh thần ở nhiều bệnh nhân cũng cần được tính đến. Phương pháp khác ở các trung tâm chuyên khoa để xác định vị trí của ổ gây tim nhanh thất bằng phương pháp bản đồ điện học tại phòng thăm dò điện sinh lý học . Một số ổ (đặc biệt là ổ thất phải) có thể được điều trị bằng sóng cao tần qua ống thông. Các ổ khác có thể được cắt bỏ hoặc khoanh vùng cách ly bằng phẫu thuật .
Rung thất
Điều trị cấp cứu rung thất đã được thảo luận ở bài các biến chứng của nhồi máu cơ tim cấp và điều trị lâu dài những bệnh nhân sống sót đã được thảo luận ở bài những bệnh nhân sống sót thoát chết đột ngột.
Bài viết cùng chuyên mục
Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim
Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô.
Hẹp động mạch phổi
Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.
Bệnh tim do phổi
Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.
Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ
Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.
Nhồi máu cơ tim cấp
Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.
Bệnh tim và thai nghén
Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.
Các rối loạn nhịp xoang
Ngoại tâm thu nhĩ và thất thường xảy ra thích ứng với nhịp chậm xoang, hiếm khi cần phải tạo nhịp nếu các triệu chứng xuất hiện liên quan với nhịp châm.
Rung nhĩ và cuồng động nhĩ
Chống đông bằng warfarin làm giảm biến chứng tắc nghẽn mạch ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi. Aspirin cũng có ích ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi.
Tạo nhịp tim vĩnh viễn
Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.
Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý
Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Triglycerid máu cao
Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.
Hở van động mạch chủ
Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.
Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc
Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.
Lipid máu và các bất thường về lipid
Hai loại lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid, chúng được mang trong các phân tử lipoprotein, và các túi hình cầu cũng chứa cả các protein
Suy tim: chẩn đoán và điều trị
Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.
Phù phổi cấp
Phù phổi cấp có biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng là khó thở dữ dội, khạc bọt hồng, vã mồ hôi và tím tái. Khám phổi cho thấy ran ở khắp hai phế trường hoặc ran rít và ran phế quản nói chung.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Bệnh cơ tim hạn chế
Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.
Nhịp tự thất gia tốc
Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis
Điều trị tăng Cholesterol LDL
Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.
Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực
Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.
Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch
Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.
Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp
Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.
Bệnh tăng huyết áp
Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.