Hẹp van hai lá

2016-10-25 10:25 AM

Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điếm cơ bản trong chẩn đoán

Khó thở, khó thở khi nằm và khó thở kịch phát về đêm.

Các triệu chứng được khởi phát khi xuất hiện rung nhĩ hoặc có thai.

Tiếng thứ nhất đanh, tiếng clăc mở van (thường có), tiếng rung mạch dần ở mỏm.

Điện tâm đồ cho thấy có những bất thường của nhĩ trái và thường có rung nhĩ. Siêu âm Doppler xác nhận chuẩn đoán và đánh giá mức độ nặng của bệnh.

Nhận định chung

Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.

Các dấu hiệu và triệu chứng

Dấu hiệu đặc trưng của hẹp hai lá là tiếng rung giữa tâm trương khu trú, âm độ thấp, thời gian của tiếng rung thay đổi theo mức độ hẹp và tần số tim. Bỏi van dày nên khi mở ở thời kỳ đầu tâm trương gây ra tiếng clắc mở van. Tiếng này có âm sắc cao, phân bố rộng khắp ngực và xảy ra ngay sau tiếng thứ hai (A2) trong những trường hợp hẹp nặng, và muộn hơn trong những trường hợp hẹp nhẹ hơn. Trong hẹp van hai lá nặng có lưu lượng máu qua van hai lá thấp, tiếng rung có thể yếu và khó phát hiện, nhưng tiếng clắc mở van hầu như bao giờ cũng nghe được. Nếu bệnh nhân có cả hẹp và hở van hai lá thì những đặc điểm nổi bật là có tiếng thổi tâm thu của hở hai lá và có hoặc không có tiếng rung tâm trương ngắn và tiếng clác mở van bị chậm lại.

Khi van hẹp dưới 1,5cm2 (bình thường 4 - 6cm2), áp lực nhĩ trái phải tăng cao để duy trì dòng máu bình thường qua van và một cung lượng tim bình thường. Điều này gây ra sự chênh lệch áp lực giữa nhĩ trái và thất trái trong thì tâm trương. Mức độ chênh áp và độ dài của tiếng rung tâm trương phản ánh mức độ nặng của hẹp van hai lá. Chúng tồn tại suốt thì tâm trương khi tổn thương nặng hoặc tần số thất nhanh.

Trong những trường hợp nhẹ, áp lực nhĩ trái và cung lượng tim co thể cơ bản là bình thường và bệnh nhân không có triệu chứng, nhưng trong hẹp vừa (diện tích lỗ van < 1,5cm2), đặc biệt là khi nhịp nhanh làm rút ngắn thời gian tâm trương và tăng lưu lượng máu qua van hai lá, thì khó thở và mệt mỏi xuất hiện vì áp lực nhĩ trái tăng cao gây ra ứ trệ ở tĩnh mạch phổi lúc nghỉ và giảm cung lượng tim, hậu quả là khó thở, mệt mỏi và suy tim phải. Tư thế nằm vào buổi tối làm tăng thêm thể tích máu lên phổi gây ra khó thở khi nằm, khó thở kịch phát ban đêm. Ứ máu phổi nặng cũng có thể xuất hiện do nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, ăn muối và uống nhiều nước quá mức, viêm nội tâm mạc hoặc thấp tim tái phát. Do tăng áp lực phổi có từ lâu đã phát triển những mạng nối giữa tĩnh mạch phổi và tĩnh mạch phế quản gây ra sự giãn tĩnh mạch dưới niêm mạc phế quản. Những tĩnh mạch giãn này thường dễ vỡ gây ra ho ra máu nhẹ hoặc nặng, ở một vài bệnh nhân có động mạch trở nên bị hẹp, làm tăng đáng kể áp lực động mạch phổi và làm tăng nhanh sự phát triển phì đại và suy thất phải. Những bệnh nhân này bị khó thở tương đối ít nhưng dễ mệt mỏi khi gắng sức.

50 - 80% các bệnh nhân xuất hiện rung nhĩ kịch phát hay mạn tính, điều này có thể thúc đẩy xuất hiện khó thở hoặc phù phổi cấp, trừ khi tần số đáp ứng của thất được khống chế.

Các thăm dò chẩn đoán

Siêu âm là một kỹ thuật có giá trị nhất để đánh giá hẹp van hai lá. Van dày, mở kém và đóng chậm. Các lá van trước và sau di động kém và cùng chiều hơn là theo hướng ngược chiều. Kích thước nhĩ trái có thể được xác định bằng siêu âm. Kích thước nhĩ trái tăng chứng tỏ nhiều khả năng bị rung nhĩ hoặc tắc mạch đại tuần hoàn. Có thể đo được diện tích van hai lá và ước lượng được độ chênh áp và áp lực động mạch phổi bằng siêu âm Doppler. Siêu âm cũng có thể phát hiện u nhày nhĩ, mà đôi khi nó có biểu hiện lâm sàng giống như hẹp van hai lá.

Bởi vì siêu âm và đánh giá cẩn thận các triệu chứng cho biết hầu hết các dữ liệu cần thiết, nên thông tim được sử dụng trước hết để phát hiện các bệnh van, bệnh mạch vành hoặc bệnh cơ tim phối hợp, sau khi đã đưa ra quyết định can thiệp.

Điều trị và tiên lượng

Hẹp van hai lả co thể không có hoặc chỉ một vài triệu chứng suốt đời, hoặc nó có thể nặng lên trong một vài năm, Trong hầu hết các trường hợp, có một giai đoạn dài không có triệu chứng, sau đó là hạn chế nhẹ các hoạt động thể lực. Sự xuất hiện rung nhĩ thường làm cho các triệu chứng nặng thêm, mặc dù khi hồi phục nhịp xoang (bằng các thuốc digoxin hoặc thường nhất là các thuốc chống loạn nhịp nhóm I hoặc nhóm III) hoặc khống chế được tần số thất, tình trạng bệnh nhân có thể được cải thiện. Chuyển nhịp và duy trì nhịp xoang tiếp theo thường thành công nhất khi thời gian rung nhĩ ngắn (< 6 - 12 tháng) và nhĩ trái không quá to (đường kính < 4,5cm). Một khi rung nhĩ đã xảy ra, bệnh nhân nên được sử dụng liệu trình chống đông máu bằng warfarin ngay cả khi nhịp xoang đã được hồi phục vì 20 - 30% các bệnh nhân này sẽ bị tắc mạch đại tuần hoàn nếu không được điều trị. Tắc mạch đại tuần hoàn khi bệnh chỉ ở mức độ nhẹ hoặc vừa thì không có chỉ định phẫu thuật nhưng nên được điều trị bằng thuốc chống đông warfarin.

Các chỉ định để loại bỏ hẹp van bao gồm: (1) Phù phổi không thể khống chế được; (2) Khó thở nhiều và phù phổi từng cơn; (3) Các dấu hiệu của tăng áp phổi với phì đại thất phải và ho ra máu; (4) Hạn chế hoạt động mặc dù tần số thất đã được kiểm soát và điều trị bằng thuốc; (5) Tắc mạch hệ thống tái phát mặc dù đã chống đông máu trong trường hợp hẹp vừa và nặng.

Phẫu thuật tách mép van có thể đem lại hiệu quả ở những bệnh nhân không có hở hai lá thực tổn. Thay van được chỉ định khi kết hợp hẹp và hở hoặc khi van hai lá biến dạng và calci hóa nên không thể mổ tảch van được.

Tỷ lệ tử vòng phẫu thuật rất thấp, chỉ 1- 5% ở hầu hết các cơ sở. Nong van bằng bóng ngày càng trở nên phổ biến ở những bệnh nhân không có hở kèm theo. Tỷ lệ thành công ban đầu cao đặc biệt là khi van bị calci hóa không nhiều. Tỷ lệ hẹp lại thấp hơn so với hẹp van động mạch chủ. Do kết quả tốt, phương thức này có lẽ sẽ thay thế thích hợp phẫu thuật ở nhiều bệnh nhân tại các trung tâm có kinh nghiệm.

Những vấn đề kết hợp với van giả là huyết khối (đặc biệt là ở vị trí van), thủng cạnh van, viêm nội tâm mạc và thay đổi thoái hóa ở các van tổ chức mô. Chống đông bằng warfarin được sử dụng trong trường hợp van giả cơ học và cũng được sử dụng ít nhất trong ba tháng đầu với van giả sinh học, đặc biệt là nếu bệnh nhân có nhĩ trái to đáng kể và vẫn còn rung nhĩ.

Bài viết cùng chuyên mục

Thấp tim cấp và bệnh tim do thấp

Các tiêu chuẩn phụ gồm sốt, đau nhiều khớp, kéo dài khoảng PQ có thể trở về bình thường được, tốc độ lắng máu cao, các dấu hiệu của nhiễm liên cầu tan huyết beta trước đó, hoặc tiền sử có thấp tim.

Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất

Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.

Tạo nhịp tim vĩnh viễn

Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.

Cơ chế rối loạn nhịp tim

Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính

Đau thắt ngực không ổn định

Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.

Hẹp hở van ba lá

Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng, hoặc các tổn thương tim trái khác, có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị

Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp

Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.

Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc

Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.

Ngoại tâm thu nhĩ

Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.

Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng

Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.

Điều trị sau nhồi máu cơ tim

Những bệnh nhân có đau thắt ngực sau nhồi máu nên được chụp mạch vành. Các tác giả phân biệt các xét nghiệm nên thực hiện thường quy ở các bệnh nhân khác.

Điều trị tăng Cholesterol LDL

Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.

Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất

Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.

Lipid máu và các bất thường về lipid

Hai loại lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid, chúng được mang trong các phân tử lipoprotein, và các túi hình cầu cũng chứa cả các protein

Các biến chứng của nhồi máu cơ tim

Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.

Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất

Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.

Tim nhanh kịch phát trên thất

Cơ chế thường gặp nhất của tim nhanh kịch phát và kết thúc bởi một ngoại tâm thu nhĩ hoặc một ngoại tâm thu thất ngẫu nhiên. Vòng vào lại có thể bao hàm cả nút xoang, nút nhĩ thất, hoặc đường dẫn truyền phụ.

Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý

Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.

Hở van động mạch chủ

Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.

Bệnh cơ tim hạn chế

Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.

Bệnh cơ tim giãn

Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.

Bệnh tăng huyết áp

Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.

Viêm màng ngoài tim

Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.

Hẹp động mạch phổi

Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.