- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Hẹp động mạch phổi
Hẹp động mạch phổi
Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm cơ bản trong chẩn đoán
Không có triệu chứng ở những bệnh nhân có tổn thương nhẹ và vừa.
Những trường hợp nặng có thể có suy tim phải và gây ra chết đột ngột.
Tiếng thổi tâm thu tống máu âm độ cao nghe rõ nhất ở khoang liên sườn hai. Tiếng thứ hai chậm và mờ hoặc không nghe thấy. Thường có tiếng clăc tống máu thất phải đập mạnh.
Phì đại thất phải trên điện tâm đồ, dãn động mạch phổi trên phim Xquang. Siêu âm Doppler xác nhận chẩn đoán.
Nhận định chung
Hẹp van động mạch phổi hoặc hẹp phần phễu làm tăng sự cản trở dòng máu ra, tăng áp lực thất phải và giảm lượng máu lên phổi. Khi không có shunt kết hợp, độ bão hóà óxy máu động mạch sẽ bình thường nhưng hẹp nặng gây rà tím ngoại biên do cung lượng tim giảm, ngón tay dùi trống và đa hồng cầu có thể không xuất hiện trừ khi có thông liên nhĩ, cho phép luồng thông từ phải qua trái.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Trong những trường hợp nhẹ (chênh áp giữa động mạch phổi và thất phải < 30mmHg) thường không cá triệu chứng. Hẹp vừa và nặng (chênh áp từ 50 đến trên 80mmhg) có thể gây ra khó thở khi gắng sức, ngất, đau ngực, và cuối cùng là suy thất phải.
Có một chỗ nhô lên rõ rệt ở cạnh xương ức. Một tếng thổi tâm thu to, thô ráp và tiếng rung miu nghe thấy ở khoang liên sườn 2 - 3 trái cạnh ức. Tiếng thổi tâm thu ở khoang liên sườn 3 - 4 trong trường hợp hẹp phần phễu. Tiếng thứ hai bị che khuất bởi tiếng thổi tâm thu trong những trường hợp nặng. Hợp phần van động mạch phổi của tiếng thứ hai thường yếu, chậm hoặc mất. Cả hai hợp phần đều có thể nghe thấy ở những ca nhẹ. Tiếng thứ tư của tim phải và một sóng a rõ rệt ở mạch tĩnh mạch có trong những trường hợp nặng.
Điện tâm đồ và Xquang ngực
Cho thấy trục phải hoặc dày thất phải, sóng P nhọn chứng tỏ tăng gánh nhĩ phải. Kích thước tim có thể binh thường trên phim X quang ngực, hoặc có thể thất phải to, và nhĩ phải to hoặc tim to toàn bộ, tùy thuộc vào mức độ nặng của bệnh. Thường có dãn sau chỗ hẹp của động mạch phổi chính hoặc động mạch phổi trái. Tình trạng mạch phổi bình thường hoặc giảm.
Các thăm dò chẩn đoán
Siêu âm thường cho thấy những bất thường về giải phẫu và đánh giá được kích thước và chức năng thất phải. Siêu âm Doppler có thể ước lượng một cách chính xác sự chênh áp. Các dữ liệu của siêu âm thường được xác nhận bằng kết quả thông tim.
Tiên lượng và điều trị
Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi. Hẹp vừa có thể không có triệu chứng từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành nhưng các triệu chứng sẽ tăng lên khi bệnh nhân trở về già.
Những bệnh nhân có triệu chứng hoặc những bệnh nhân có dấu hiệu của dầy thất phải và chênh áp lúc nghỉ ngơi trên 75 - 80mmHg thì trong hầu hết các trường hợp cần phải sửa chữa. Nong van bằng bóng qua da đã chứng tỏ thành công và thường là phương pháp điều trị được lựa chọn. Phẫu thuật có thể được thực hiện với tỷ lệ tử vong 2 - 4% và trong hầu hết các trường hợp kết quả lâu dài rất tốt.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính
Tim nhanh kịch phát trên thất
Cơ chế thường gặp nhất của tim nhanh kịch phát và kết thúc bởi một ngoại tâm thu nhĩ hoặc một ngoại tâm thu thất ngẫu nhiên. Vòng vào lại có thể bao hàm cả nút xoang, nút nhĩ thất, hoặc đường dẫn truyền phụ.
Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim
Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.
Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất
Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.
Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất
Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.
Các biến chứng của nhồi máu cơ tim
Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.
Đau thắt ngực
Đau thắt ngực thường do bệnh xơ vữa các động mạch vành gây ra. Co thắt động mạch vành cũng có thể xẩy ra ở vị trí tổn thương hoặc hiếm hơn, ở những động mạch hoàn toàn bình thường.
Bệnh tăng huyết áp
Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.
Hẹp van động mạch chủ
Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.
Bệnh cơ tim phì đại
Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Lựa chọn và theo dõi các van tim giả
Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.
Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực
Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc
Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.
Bệnh tim do phổi
Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.
Điều trị tăng Cholesterol LDL
Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.
Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất
Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.
Hở van hai lá
Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.
Cấp cứu tăng huyết áp
Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.
Viêm màng ngoài tim co thắt
X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.
Ngoại tâm thu nhĩ
Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.
Các rối loạn nhịp xoang
Ngoại tâm thu nhĩ và thất thường xảy ra thích ứng với nhịp chậm xoang, hiếm khi cần phải tạo nhịp nếu các triệu chứng xuất hiện liên quan với nhịp châm.
Block nhĩ thất
Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.
Đau thắt ngực không ổn định
Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.