- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Cấp cứu tăng huyết áp
Cấp cứu tăng huyết áp
Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Cấp cứu tăng huyết áp trong những năm gần đây ít gặp hơn nhưng vẫn đòi hỏi phải phát hiện nhanh chóng và điều trị mạnh mẽ nhưng cẩn thận. Một số bệnh cảnh cấp đã gặp và phương thức điều trị thích hợp thay đổi tùy theo hoàn cảnh đó.
Tăng huyết áp cấp cứu (hypertensive urgencises)
Tăng huyết áp cấp cứu (hypertensive urgencises) là những tình huống mà huyết áp phải được giảm xuống trong vòng vài giờ. Ví dụ như tăng huyết áp nặng không có triệu chứng (huyết áp tâm thu > 240 mmHg, huyết áp tâm trương > 130mmHg) và tăng huyết áp vừa phải có triệu chứng (huyết áp tâm thu > 200mmHg, huyết áp tâm trương > 120mmHg hoặc thậm chí ở mức thấp hơn) kết hợp với đau đầu, suy tim, đau thắt ngực hoặc xảy ra trong giai đoạn xung quanh phẫu thuật. Hiếm khi cần điều trị bằng đường tiêm và mục đích của điều trị là làm giảm một phần huyết áp và giảm nhẹ các triệu chứng.
Tăng huyết áp tối cấp (hyperìenừive emergencies)
Tăng huyết áp tối cấp (hypertenisive emergencies) là trường hợp đòi hỏi phải giảm mạnh huyết áp trong vòng 1 giờ để tránh các biến chứng nặng nề hoặc tử vong. Mặc dù huyết áp thường tăng rất cao (huyết áp tâm trương > 130mmHg) nhưng mối liên quan giữa huyết áp và tổn thương cơ quan đích thường không rõ ràng. Một điều chắc chắn là mức độ tổn thương cơ quan đích quyết định tính chất nghiêm trọng của cấp cứu và phương thức điều trị. Những trường hợp cấp cứu gồm bệnh não do tăng huyết áp, đau đầu, kích thích, co giật và tình trạng ý thức thay đổi do co thắt mạch não; bệnh thận do tăng huyết áp (đái máu, protein niệu vá rối loạn chức năng thận nặng lên do hoại tử các tiểu động thạch và phì đại lớp nội mạc của các tiểu động mạch gian tiểu thùy); xuất huyết nội sọ, phù phổi, phình tách động mạch chủ, tiền sản giật - sản giật, đau thắt ngực không ổn định hòặc nhồi máu cơ tim.
Tăng huyết áp ác tính (malignant hypertension)
Tăng huyết áp ác tính (malignant hypertension) được đặc trưng bằng bệnh não hoặc bệnh thận do tăng huyết áp có kèm theo phù gai thị. Suy thận nặng lên thường xảy ra nếu không được điều trị. Phương thức điều trị giống với phương thức được áp dụng cho cấp cứu chổng tăng huyết áp khác.
Điều trị đường tiêm truyền được chì định trong hầu hết các trường hớp cấp cứu tăng huyết áp, đặc biệt là nếu khi có bệnh não do tăng huyết áp: Mục đích đầu tiên của điều trị là giảm nhanh chóng huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương, ít nhất xuống từ 20 - 40mmHg và 10 - 20mmHg, tương ứng, để mức huyết áp còn dưới 180 - 200/110 - 120mmHg. Việc giảm dần dần hơn sau đó tới mức bình thường là phương pháp thích hợp.
Điều trị bằng thuốc
Các thuốc đường tiêm truyền
Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp đã liệt kê các thuốc, liều lượng và tác dụng phụ. Natri nitroprussid là một thuốc được chọn cho hầu hết các cấp cứu tăng huyết áp nặng bởi vì nó có tác dụng nhanh và đễ điều chỉnh nhưng cần phải theo dõi liên tục khi sử dụng thuốc này. Khi có thiếu máu cơ tim, nitroglycerin đường tĩnh mạch hoặc chẹn beta đường tĩnh mạch như labetalol hoặc esmolol là thích hợp.
(1) Nitroprussid natri. Thuốc này được sử dụng bằng truyền tĩnh mạch, được chuẩn độ dần dần để đạt tới tác dụng mong muốn. Nó làm giảm huyết áp trong vòng vài giây bằng - tác dụng dãn trực tiếp tiểu động mạch và tĩnh mạch. Theo dõi liên tục bằng ống dẫn trong lòng động mạch là cần thiết để tránh hạ huyết áp quá mức. Nitroprussid khi kết hợp với 1 chẹn beta là đặc biệt tốt ở những bệnh nhân có phình tách đọng mạch chủ.
(2) Nilroglycerin đường tĩnh mạch. Thuốc này có tác dụng hạ áp ít hơn nitroprussid và nên dành cho những bệnh nhân có hội chứng thiếu máu cục bộ cấp đi kèm.
(3) Trimethapan. Thuốc chẹn tại hạch trimethapan được chuẩn độ khi bệnh nhân ở tư thế ngồi, tác dụng của nó tùy thuộc vào điều này. Bệnh nhân có thể để ở tư thế nằm nếu như tác dụng hạ áp qúa mạnh. Tác dụng xảy ra trong vòng ít phút và kéo dài trong suốt thời gian truyền. Thuốc này hầu như đã được thay thế bằng pitroprussid và các thuốc mới hơn.
(4) Diaioxịd. Diạzoxid tác dụng nhanh như một thuốc dãn mạch mà không làm giảm dòng máu thận. Nó được sử dụng trong sản giật và tiền sản giật. Tác dụng phụ gồm cả hạ hụyết áp, có thể xảy ra nặng nên cần phải bắt đầu bằng liều nhỏ hơn ở người già hoặc truyên chậm trong 30 phút, phương pháp này cũng đem lại hiệu quả và sự dung nạp tốt hơn. Tăng đường máu, ứ natri và nước có thể xảy ra. Thuốc chỉ nên sử dụng trong một thời giạn ngắn và tốt nhất là kết hợp với các thuốc lợi tiểu mạnh như furosemid.
(5) Labetalol. Thuốc chẹn alpha và beta kết hợp này là loại chẹn giao cảm mạnh nhất dùng để hạ huyết áp nhanh. Đáp ứng hạ huyết áp quá mức ít xảy ra. Kinh nghiệm pho thấy thuốc này sử dụng trong các hội chứng tăng huyết áp, kết hợp với có thai là thích hợp.
(6) Esmolol: Thuốc chẹn beta tác dụng nhanh này đã được phê chuẩn để điều trị tim nhanh trên thất. Nó có hiệu quả kém;labetalol nhưng rất tốt khi cần hạ nhanh hụyết áp, đặc biệt là khi kết hợp với một thuốc dãn mạch như nitropruppid, nitroglycerin hoặc hydralazin. Esmolol rất tốt trọng thiếụ máu,cơ tim cục bộ.
(7) Hydralazin. Có thể sử dụng đường tĩnh mạch hoặc tiêm bắp, nhưng tác dụng của nó ít dự đoán được hơn như là các thuốc khác trong nhóm này. Nó gây tim nhanh phản xạ và không nên cho khi không có chẹn beta được sử dụng cùng ở những bệnh nhân có khả năng bị bệnh mạch vành hoặc phình tách động mạch chủ. Trên cơ sở kinh nghiệm, hydralazin hiện nay được sử dụng chủ yếu ở người có thai và trẻ em, nhưng ngay cả trong tình huống này, nhiều thuốc mới đã thay thế nó.
(8) Enalaprilat. Đây là hình thái hoạt động của thuốc ức chế men chuyển angiotensin. Enalapril khởi phát tác dụng thường trong vòng 15 phút, nhưng tác dụng tối đa có thể chậm tới 6 giò. Bởi vậy enalaprilat có tác dụng chủ yếu như là một thuốc bổ sung.
(9) Các thuốc lợi tiểu. Các thuốc lợi tiểu vòng đường tĩnh mạch có thể rất tốt khi bệnh nhân có dấu hiệu suy tim hoặc ứ trệ dịch. Lúc đầu nên sử dụng liều lượng thấp (furosemid 20mg, bumetanid 0,5mg). Chúng làm cho đáp ứng với các thuốc dãn mạch xảy ra nhanh chóng nên thường kích thích ứ trệ dịch.
Các thuốc uống
Bệnh nhân có các hội chứng tăng huyết áp cấp ít nặng hơn có thể điều trị bằng liệu pháp uống. Họ nên được theo dõi chặt chẽ cho đến khi điểm cuối của liệu pháp đạt được.
(1) Clonidin. Clonidin 0,2mg uống lần đầu sau đó 0,1mg cứ 1 giờ/lần, tổng liều lượng 0,8mg, sẽ thường làm giảm huyết áp trong thời gian vài giờ. Thuốc thường có tác dụng an thần. Tăng huyết áp bật lại có thể xảy ra khi ngừng thuốc.
(2) Nifedipin: Nifedipin 10 - 20mg uống sẽ làm giảm huyết áp trong vòng 5 - 20 phút trong hầu hết các bệnh nhân. Một liều lượng bổ sung 10mg có thể là cần thiết. Đáp ứng hạ huyết áp quá mức có thể xảy ra đặc biệt là nếu khi thuốc được sử dụng bằng đường dưới lưỡi và phản xạ tim nhanh có thể gây đau thắt ngực.
(3) Captopril. Captopril 12,5 - 25mg uống cũng sẽ hạ thấp huyết áp trong 15 - 30 phút. Đáp ứng với thuốc rất khác nhau và có thể là quá mức.
Điều trị tiếp theo
Khi huyết áp đã được khống chế, việc kết hợp các thuốc hạ huyết áp uống có thể được bổ sung vì các thuốc sử dụng ngoài đường uống sẽ giảm dần trong thời gian 2 - 3 ngày. Hầu hết các chế độ điều trị tiếp theo nên có một thuốc lợi tiểu.
Bài viết cùng chuyên mục
Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch
Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.
Điều trị tăng Cholesterol LDL
Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.
Hẹp động mạch phổi
Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.
Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất
Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.
Thông liên nhĩ
Những bệnh nhân với shunt nhỏ có thể có cuộc sống bình thường, các shunt lớn sẽ gây ra biến chứng ở tuổi bốn mươi. Tăng sức cản mạch máu phổi thứ phát dẫn tới tăng huyết áp động mạch phổi hiếm khi xảy ra ở trẻ em.
Hẹp van hai lá
Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.
Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc
Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.
Viêm màng ngoài tim co thắt
X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.
Hẹp eo động mạch chủ
Huyết áp sẽ tăng ở động mạch chủ và các nhánh của nó ở phần trước chỗ hẹp còn huyết áp lại giảm ở phần sau chỗ hẹp. Tuần hoàn bàng hệ phát triển qua các động mạch liên sườn và các nhánh của động mạch dưới đòn.
Triglycerid máu cao
Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.
Hở van hai lá
Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.
Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp
Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.
Lựa chọn và theo dõi các van tim giả
Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Lipid máu và các bất thường về lipid
Hai loại lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid, chúng được mang trong các phân tử lipoprotein, và các túi hình cầu cũng chứa cả các protein
Đau thắt ngực không ổn định
Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.
Hẹp hở van ba lá
Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng, hoặc các tổn thương tim trái khác, có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị
Bệnh cơ tim giãn
Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.
Nhịp nhanh thất và rung thất
Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.
Đánh giá ngất
Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.
Suy tim: chẩn đoán và điều trị
Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Bệnh cơ tim hạn chế
Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.
Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý
Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.
Phù phổi cấp
Phù phổi cấp có biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng là khó thở dữ dội, khạc bọt hồng, vã mồ hôi và tím tái. Khám phổi cho thấy ran ở khắp hai phế trường hoặc ran rít và ran phế quản nói chung.