- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Bệnh cơ tim phì đại
Bệnh cơ tim phì đại
Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các bệnh cơ tim là một nhóm thực thể không đồng nhất có tổn thương cơ tim tiên phát và không kết hợp với nguyên nhân chủ yếu của bệnh tim như bệnh tim thiếu máu cục bộ, tăng huyết áp, bệnh van tim, hoặc bệnh tim bẩm sinh. Trong khi một số có nguyên nhân đặc hiệu thì nhiều trường hợp là tự phát. Hiện nay đã có sự thống nhất chung về một cách phân loại bệnh cơ tim thành 3 loại dựa trên những đặc điểm chung của những biểu hiện và sinh lý bệnh của chúng. Một số bệnh nhân có những đặc điểm chồng chéo, nhưng sự phân loại này được sử dụng để đánh giá chẩn đoán và điều trị.
Vai trò của sinh thiết cơ bản
Việc sử dụng sinh thiết cơ tim để đưa ra chẩn đoán đặc hiệu ở những bệnh nhân bị bệnh cơ tim ngày càng tăng lên. Các chỉ định cho thủ thuật này vẫn đang còn thảo luận, nhưng nó cần thiết để phát hiện sớm sự loại bỏ mảnh ghép. Sinh thiết cũng đã giúp ích trong việc phân biệt bệnh cơ tim hạn chế với co thắt màng ngoài tim, một vấn đề còn rất khó khăn. Đôi khi có thể đựa ra chẩn đoán đặc hiệu như thoái hóa dạng tinh bột, bệnh sarcoid, nhiễm sắc tố sắt hoặc một loại nhiễm trùng ít gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp những tình trạng này thường được gợi ý bởi các dấu hiệu tại tim hay toàn thân. Sinh thiết có thể cho thấy nhưng bằng chứng của viếm cơ tim cấp và nếu dự định điều trị ức chế miễn dịch thì nên tiến hành sinh thiết ở những bệnh nhân thích hợp.
Những điểm cơ bản trong chấn đoán
Có thể có khó thở, đau ngực, ngất.
Thăm khám cho thấy đập ở mỏm tim, tiếng tim thứ tư (S4), tiếng thổi tâm, thu tống máu.
Điện tâm đồ cho thấy phì đại thất trái.
Siêu âm thấy phl đại, có thể là lệch tâm, chức năng co bóp bình thường hoặc tăng và có dấu hiệu của tắc nghẽn huyết động.
Nhận định chung
Trong bệnh cơ tim, sự phì đại cơ tim thường không cân đối - không có liên quan tới sự quá tải về áp lực hoặc thể tích - sự phì đại cơ tim có khuynh hướng xâm phạm chủ yếu buồng thất trái. Điểm đặc trưng là vách liên thất bị tổn thương không cân xứng (phì đại vách lệch tâm), nhưng trong một số trường hợp sự phì đại lại khu trú ở mỏm. Đường ra của thất trái thường bị hẹp trong thời kỳ tâm thu giữa cho phình lên của vách liên thất và lá trước của van hai lá di chuyển ra phía trước gây ra tắc nghẽn huyết động (vì vậy bệnh còn có tên hẹp phì đại dưới van động mạch chủ tự phát, IHSS). Sự tắc nghẽn bị nặng lên bởi các yếu tố làm tặng cường sức co bóp cơ tim (kích thích giao cảm, digoxin, nhát bóp sau ngoại tâm thu) hoặc do giảm đổ đầy thất trái (nghiệm pháp Valsalva, dãn mạch ngoại biên).
Bệnh cơ tim phì đại trong một số trường hợp dược di truyền tính trội nhiễm sắc thể với sự xâm nhập khác nhau gây ra bởi những đột biến của mã gen cho các chuỗi nặng myosin. Các bệnh nhân này thường ở tuổi thanh niên. Một số khác là những người già và nhiều trong số bệnh nhân này có tiền sử tăng huyết áp lâu ngày. Một số trường hợp xảy ra không thường xuyên.
Ngoại trừ ở các giai đoạn muộn, bệnh cơ tim phì đại được đặc trưng bằng thất trái nhỏ, tăng co bóp. Mặc dù khó thở là một triệu chứng thường gặp, nó trước hết là do rối loạn chức năng tâm trương bị tổn thương rõ rệt hơn là rối loạn chức năng tâm thu hoặc tắc nghẽn đường ra.
Bảng. Phân loại các bệnh cơ tim
|
Bệnh cơ tim dãn |
Bệnh cơ tim phì đại |
Bệnh cơ tim hạn chế |
Các nguyên nhân thường gặp |
Tự phát, rượu, viêm có tim, sau đẻ, doxorubicin, các bệnh lý nội tiết, các bệnh di truyền |
Hội chứng di truyền, có thể tăng huyết áp lâu ngày |
Nhiễm tinh bột, sau chiếu xạ, sau phẫu thuật tim mở, đái tháo dưòng, xơ nội mạc có tim |
Các triệu chứng |
Suy tim trái hoặc suy tim toàn bộ |
Khó thở, đau ngực, có thể ngất |
Khó thở, mệt mỏi, suy tim phải |
Khám thực thể |
Tim to, tiếng thứ 3 (S3), áp lực tĩnh mạch cảnh tăng, ran ở phổi |
Tiếng tim S4, có thể có tiếng thổi tâm thu, mạch dội đôi ở mạch cảnh |
Áp lực tĩnh mạch cảnh tăng, dấu hiệu Kussmaul |
Điện tâm đồ |
Những thay đổi của ST-T, rối loạn dẫn truyền, ngoại tâm thu thất |
Phì đại thất trái, sóng Q vách liên thất Iớn |
Những thay đổi ST-T, rối loạn dận truyền, điện thế thấp |
X quang ngực |
Tim to, ứ huyết phổi |
Tim to vừa phải |
Tim hơi to đến to vừa phải |
Siêu âm, các thăm dò hạt nhân |
Dãn và rối loạn chức năng thất trái |
Dày thất trái, phì đại vách liên thất lệch tâm, kích thưỏc thất trái nhỏ, chức năng thất bình thường hoặc tăng, di động của van hai lá ra phía trước thì tâm thu. Rối loạn chức năng tâm trương |
Kích thưóc thất trái nhỏ hoặc bình thường. Chức năng thất trái giảm nhẹ hoặc bình thường |
Thông tim |
Dãn và rối loạn chức năng thất trái, áp lực tâm trương cao, cung lượng tim thấp |
Thất trái nhỏ, tăng co bóp, chênh áp đường ra, rối loạn chức năng tâm trương |
Áp lực tâm trương cao, dấu hiệu "rễ vuông", chức năng thất trái giảm nhẹ hoặc bình thường |
Các triệu chứng và dấu hiệu
Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên. Loạn nhịp là rất quan trọng. Rung nhĩ là biến chứng muộn của tăng áp lực nhĩ trái kéo dài và là dấu hiệu tiên lượng xấu. Loạn nhịp thất cũng thường gặp và có thể gây đột tử, thường gặp ở vận động viên điền kinh sau luyện tập quá mức.
Điểm đặc trưng khi thăm khám thực thể là mạch cảnh đập thất thường, mỏm tim đập nhịp ba (do sóng đổ đầy nhĩ lớn, sớm và xung động tâm thu muộn), nghe thấy tiếng tim thứ tư (S4). Trong những trường hợp có tắc nghẽn đường ra, nghe thấy một tiếng thổi tâm thu to tăng lên ở tư thế đứng hoặc nghiệm pháp Valqalva và giảm đi khi ngồi xổm.
Điện tâm đố và x quang ngực
Hầu như bao giờ cũng thấy phì đại thất trái, một sóng Q vách quá lớn phía trước gợi ý có nhồi máu cơ tim. Phim xoang ngực thường không có gì đặc biệt.
Các thăm dò
Điện tâm đồ chẩn đoán cho thấy phì đại thất trái lệch tâm, di động của lá trước van hai lá ra phía trước thì tâm thu, đóng sớm của van hai lá tiếp theo bằng tái mở lại của van động mạch chủ, thất trái nhỏ và tăng co bóp, dãn và đổ đầy chậm của thất trái trong thì tâm trương. Siêu âm Doppler cho thấy dòng máu hỗn loạn phụt hình ống và có sự chênh áp qua van động mạch chủ và thường có hở van hai lá. Thông tim có thể xác nhận sự chênh áp nhưng chỉ có thể bổ sung một chút cho siêu âm.
Điều trị
Chẹri beta là thuốc đầu tiên được sử dụng cho những bệnh nhân có những triệu chứng, đậc biệt là khi tấc nghẽn đường ra thấy rõ trên siêu âm. Khó thở, đau ngực và rối loạn nhịp đáp ứng vào khoảng 50% các bệnh nhân. Các thuốc chẹn dòng calci đặc biệt là verapamil cũng có hiệu quả ở những bệnh nhân có triệu chứng. Tác dụng của chúng trước hết có thể là do cải thiện chức năng tâm trương, nhưng tác dụng giãn mạch của chúng cũng có thể làm tăng sự tấc nghẽn đường ra. Cắt một phần cơ tim cùng vách đã đem lại kết quả ở những bệnh nhân có triệu chứng nặng nề do các nhà phẫu thuật có kinh nghiệm thực hiện. Những nghiên cứu mới đây chứng tỏ rằng tạo nhịp hai buồng có thể ngăn cản sự tiến triển nặng lên của phì đại và tắc nghẽn. Amiodaron và có thể cả sotalol có giá trị bởi vì hay có rối loạn nhịp thất và nguy cơ chết đột ngột liên quan loạn nhịp thất.
Tiên lượng
Lịch sử tự nhiên của bệnh cơ tim phì đại rất thay đổi. Một số bệnh nhân có thể không có triệu chứng trong nhiều năm hoặc suốt đời. Chết đột ngột, đặc biệt là trong gắng sức, có thể là biểu hiện đầu tiên. Thật vậy, bệnh cơ tirn phì đại do các đặc điểm giải phẫu bệnh nên hay kết hợp nhiều nhất với chết đột ngột ở các vận động viên điềnn kinh. Các bệnh nhân khác có bệnh sử với các triệu chứng tiến triển dần dần. Giai đoạn cuối có thể trở thành bệnh cơ tim dãn. Nhiều ý kiến ủng hộ dùng amiodaron cho các bệnh nhân này.
Bài viết cùng chuyên mục
Tim nhanh kịch phát trên thất
Cơ chế thường gặp nhất của tim nhanh kịch phát và kết thúc bởi một ngoại tâm thu nhĩ hoặc một ngoại tâm thu thất ngẫu nhiên. Vòng vào lại có thể bao hàm cả nút xoang, nút nhĩ thất, hoặc đường dẫn truyền phụ.
Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực
Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.
Đau thắt ngực không ổn định
Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.
Điều trị sau nhồi máu cơ tim
Những bệnh nhân có đau thắt ngực sau nhồi máu nên được chụp mạch vành. Các tác giả phân biệt các xét nghiệm nên thực hiện thường quy ở các bệnh nhân khác.
Ngoại tâm thu nhĩ
Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.
Tăng áp động mạch phổi tiên phát
Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.
Bệnh tim do phổi
Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.
Bệnh cơ tim giãn
Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.
Bệnh tim và phẫu thuật
Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim
Hẹp eo động mạch chủ
Huyết áp sẽ tăng ở động mạch chủ và các nhánh của nó ở phần trước chỗ hẹp còn huyết áp lại giảm ở phần sau chỗ hẹp. Tuần hoàn bàng hệ phát triển qua các động mạch liên sườn và các nhánh của động mạch dưới đòn.
Cấp cứu tăng huyết áp
Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.
Các khối u tim
Chẩn đoán xác định thường dựa vào siêu âm nhưng cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp bằng máy vi tính cũng có thể giúp ích.
Thông liên nhĩ
Những bệnh nhân với shunt nhỏ có thể có cuộc sống bình thường, các shunt lớn sẽ gây ra biến chứng ở tuổi bốn mươi. Tăng sức cản mạch máu phổi thứ phát dẫn tới tăng huyết áp động mạch phổi hiếm khi xảy ra ở trẻ em.
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Hở van động mạch chủ
Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.
Tràn dịch màng ngoài tim
Tràn dịch màng tim có thể kết hợp với đau nếu như chúng xảy ra như là một phần của quá trình viêm cấp tính hoặc có thể không có đau và thường gặp ở những trường hợp tràn dịch do ung thư hoặc do tăng ure máu.
Hẹp hở van ba lá
Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng, hoặc các tổn thương tim trái khác, có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị
Hẹp van hai lá
Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.
Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim
Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.
Các biến chứng của nhồi máu cơ tim
Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.
Đánh giá ngất
Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.
Điều trị tăng Cholesterol LDL
Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.
Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất
Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.
Thấp tim cấp và bệnh tim do thấp
Các tiêu chuẩn phụ gồm sốt, đau nhiều khớp, kéo dài khoảng PQ có thể trở về bình thường được, tốc độ lắng máu cao, các dấu hiệu của nhiễm liên cầu tan huyết beta trước đó, hoặc tiền sử có thấp tim.
Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ
Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.