Viêm thực quản nhiễm khuẩn

2016-11-21 05:12 PM

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Bệnh nhân bị ức chế miễn dịch.

Nuốt đau, khó nuốt và đau ngực.

Nội soi và sinh thiết xác nhận chẩn đoán

Các nhận định chung

Viêm thực quản nhiễm khuẩn xẩy ra nhiều nhất ở các bệnh nhân bị ức chế miễn dịch. Các bệnh nhân AIDS, ghép cơ quan đặc, bệnh bạch cầụ, u lympho và những người nhận các thuốc ức chế miễn dịch có nguy cơ đặc biệt bị các nhiễm khuẩn cơ hội. Candida albicans, herpes simplex, cytomegalo virus là những tác nhân gây bệnh thường gặp nhất. Nhiễm Candida cũng xẩy ra ở các bệnh nhân đái tháo đường không kiểm soát được và những người đang được điều trị bằng corticosteroid toàn thân, hóa liệu pháp, chiếu xạ liệu pháp hoặc kháng sinh liệu pháp toàn thân. Herpes simplex có thể lây nhiễm vật chủ bình thường nhưng trong những trường hợp đó sự lây nhiễm thường giới hạn.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng. Chứng nấm miệng chỉ thấy ở 50% số bệnh nhân với viêm thực quản do candida và 25 - 50% số bệnh nhân với viêm thực quản virus, do đó không phải là chỉ số đáng tin cậy về nguyên nhân của nhiễm khuẩn thực quản. Các bệnh nhân bị nhiễm cytomegalovirus có thể có nhiễm khuẩn ở các vị trí khác như là ruột kết hoặc võng mạc. Các vết loét miệng (herpes môi) thường liên quan với viêm thực quản herpes simplex.

Các thăm khám đặc hiệt

Điều trị có thể là theo kinh nghiệm. Để có sự chác chắn về chắn đoán, nội soi với sinh thiết và các mẫu chải tế bào học được ưa thích hơn vì có tính chính xác chẩn đoán cao. Các dấu hiệu nội soi của viêm thực quản do Candida là những mảng lan tỏa, theo đường kẻ, màu trắng vàng dính vào niêm mạc. Viêm thực quản do cytomegalovirus có đặc điểm là có một hay nhiều chỗ loét nông, trên bề mặt lớn. Viêm thực quản do herpes dẫn đến nhiều chỗ loét nhỏ, sâu.

Điều trị

Viêm thực quản do candida

Điều trị phụ thuộc vào trạng thái miễn dịch của bệnh nhân và độ nặng của bệnh. Các lựa chọn bao gồm các tác nhân dùng tại chỗ (nystatin, 1- 3 triệu đơn vị "xúc miệng và nuốt" năm lần mỗi ngày; clotrimazol viêm nén, 10mg ngậm tan trong miệng năm lần mỗi ngày), các tác nhân uống (ketoconazol, fluconazol) và các tác nhân tiêm tĩnh mạch (amphotericin B, fluconazol). Liệu pháp tại chỗ được dùng trước tiên cho các bệnh nhân có hệ thống miễn dịch bình thường. Liệu pháp ban đầu cho các bệnh nhân bị tổn hại miễn dịch (bao gồm cả AIDS) thường là với ketoconazol, 200 - 400mg/ngày uống hoặc fluconazol, 100 -200mg/ngày uống trong 2 - 3 tuần. Mặc dù fluconazol đắt tiền hơn so với ketoconazol nhưng nó cũng có hiệu lực hơn và không đòi hỏi pH dạ dày thấp để hấp thu. Các bệnh nhân không đáp ứng với liệu pháp uống được điều trị bằng liều thấp amphotericin B, 0,3 - 0,5 mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch trong 7 ngày.

Viêm dạ dày do cytomegalovirus

Liệu pháp ban đầu là dùng ganciclovir, 5mg/kg tiêm tĩnh mạch 12 giờ một lần trong 14 - 21 ngày. Giảm bạch cầu trung tính là một tác dụng phụ thường gặp gây hạn chế liều lượng. Nếu giải quyết được đỡ hơn các triệu chứng thì có thể ngừng thuốc nhưng nếu không được giải quyết, có thể tiếp tục liều đầy đủ trong 2 - 3 tuần thêm; Trong một số trường hợp (nhất là ở các bệnh nhân AIDS) cần phải cho ganciclovir, 5mg/kg tĩnh mạch liên tục mỗi ngày. Các bệnh nhân, hoặc không có đáp ứng hoặc không dung nạp ganciclovir, được điều trị khẩn cấp bằng foscarnet 60mg/kg tiêm tĩnh mạch cứ 8 giờ một lần trong 14 - 21 ngày.

Viêm thực quàn do herpes

Các bệnh nhân có khả năng miễn dịch có thể được chữa triệu chứng và toàn thân không yêu cầu liệu pháp chống virus đặc hiệu. Các bệnh nhân bị ức chế miễn dịch có thể được điều trị bằng acyclovir uống, 200mg năm lần mỗi ngày, hoặc 250mg/m2 đường tĩnh mạch cứ 8 - 12 giờ một lần, thường trong 7 - 10 ngày. Những người không đáp ứng thì cần liệu pháp foscarnet, 40mg/kg đường tĩnh mạch cứ 8 giờ một lân trong 21 ngày.

Tiên lượng

Phần lớn các bệnh nhân bị viêm thực quản nhiễm khuẩn có thể điều trị có kết quả với việc giải quyết hoàn toàn các triệu chứng. Tùy thuộc vào mức độ suy giảm miễn dịch cơ bản của bệnh nhân, sự tái phát các triệu chứng khi không dùng liệu pháp nữa có thể gây khó khăn. Đôi khi cần dùng liệu pháp ức chế lâu dài.

Bài viết cùng chuyên mục

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.