Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

2016-11-25 02:11 PM

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Phần lớn các trường hợp tiêu chảy liên quan với kháng sinh không do Clostridium difficile và thường là nhẹ, tự khỏi.

Các triệu chứng của viêm ruột kết liên quan với kháng sinh thay đổi từ nhẹ đến dữ dội, phần lớn các triệu chứng này bị quy cho C. difficile.

Chẩn đoán các ca nhẹ đến trung bình được xác lập bằng thủ nghiệm độc tố trong phân.

Soi đại tràng sigma ống mềm cho phép chẩn đoán nhanh nhất trong các trường hợp nặng.

Các nhận định chung

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin. Điều đặc trưng là tiêu chảy xẩy ra trong thời kỳ tiếp xúc với kháng sinh, liên quan với liều lượng, và tiêu tan tự phát sau khi ngừng kháng sinh.

Trong phần lớn các trường hợp, tiêu chảy này nhẹ và không đòi hỏi sự đánh giá labo đặc biệt hoặc điều trị. Xét nghiệm phải thường phát hiện không có các bạch cầu ở phân và nuôi cấy phân không có các mẫu gây bệnh. Mặc dù C. difficile được xác định trong phân ở 15 - 25% các trường hợp tiêu chảy liên quan với kháng sinh, nó cũng được xác định ở 5 - 10% các bệnh nhân được điều trị kháng sinh không có tiêu chảy. Phần lớn tiêu chảy liên quan với kháng sinh không do C. difficile gây ra.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh là một vấn đề lâm sàng quan trọng hầu như luôn do C. difficile gây nên. Các bệnh nhân nằm viện hay bị thể này nhất. Vi khuẩn yếm khí này xâm chiếm ruột kết ở 2 - 3% những người lớn khỏe mạnh. Tuy nhiên, ở các bệnh nhân nằm viện, nó có mặt ở trên 20% số bệnh nhân, phần lớn những người này đã dùng kháng sinh làm rối loạn hệ khuẩn chí bình thường trong ruột và cho phép vi khuẩn này phát triển. Đại đa số các bệnh nhân này không có triệu chứng. Vi khuẩn lan rộng theo cách từ phân lên miệng. Nó được thấy khắp nơi trong bệnh viện, phòng bệnh nhân và buồng tắm và dễ dàng truyền từ bệnh nhân sang bệnh nhân qua nhân viên bệnh viện. Rửa tay cẩn thận và sử dụng các găng tay dùng một lần giúp làm giảm thiểu sự lây truyền.

Ở một số bệnh nhân bị vi khuẩn xâm chiếm, viêm ruột kết do C.difficile gây ra sẽ phát triển, C. difficile gây viêm ruột kết là nguyên nhân chủ yếu của tiêu chảy ở các bệnh nhân nằm viện trên 3 ngày, gây bệnh cho 7:1000 bệnh nhân. Tuy hầu hết các kháng sinh đã được coi là có dính líu, viêm ruột kết thường hay phát sinh nhất sau khi dùng ampicillin, clindamycin và cephalosporin. Các triệu chứng thường bắt đầu trong hoặc ngay sau liệu pháp kháng sinh, nhưng có thể trì hoãn trong nhiều tuần. Do đó, điều quan trọng là hỏi tất cả bệnh nhân bị tiêu chẩy cấp tính về tiền sử mới dùng với kháng sinh.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Phần lớn các bệnh nhân than phiền tiêu chảy ra nước nhẹ đến trung bình với đau thắt bụng dưới. Thăm khám thực thể thấy bình thường hoặc phát hiện tăng cảm giác đau nhẹ ở cung phân tư dưới trái của bụng với bệnh nặng hơn, có đau bụng và tiêu chảy nhiều nước tới 30 lần một ngày. Phân có thể có chất nhầy nhưng ít khi có máu rõ ràng. Thường có sốt nhẹ, tăng cảm giác đau ở bụng và tăng bạch cầu. Cuối cùng, một số nhỏ bệnh nhân phát sinh viêm ruột kết bột phát với tình trạng ngủ lịm, sốt, nhịp tim nhanh, đau và căng trướng bụng.

Các khám xét đặc biệt

Nghiên cứu phân

Các chủng gây bệnh của C. difficile sản ra hai độc tố, độc tố A là một độc tố ruột và độc tố B là độc tố tế bào. Ở phần lớn các bệnh nhân, chẩn đoán viêm mô lỏng lẻo liên quan với kháng sinh được xác lập bằng việc xác minh các độc tố C. difficile trong phân. Một thử nghiệm độc tố tế bào trong phân (độc tố B) có độ đặc hiệu 99% và độ nhậy 95%. Đây là một test quyết định, nhưng cần làm trong 24 giờ. Thử nghiệm ELISA nhanh về các độc tố A và B đã được phát triển, có 70 - 85% độ nhậy. Nuôi cấy C. diffcile là không nên làm vì chậm, tốn kém và không xác định được các chủng sinh độc. Các bạch cầu chỉ có trong phân ở 50% các bệnh nhân viêm ruột kết.

Nội soi đại tràng sigma ống mềm

Nội soi đại tràng sigma ống mềm được thực hiện ở các bệnh nhân với các triệu chứng nặng hơn khi chẩn đoán nhanh để đáp ứng nhu cầu bắt đầu tiến hành điều trị.

Ở các bệnh nhân với các dấu hiệu nhẹ đến trung bình, có thể không có các bất thường hoặc chỉ viêm ruột kết từng mảng hoặc lan rộng, không đặc trưng, không phân biệt được với các nguyên nhân khác. Ở các bệnh nhân đau yếu nặng, người ta thấy viêm ruột kết giả mạc thật sự. Bệnh này có vẻ bên ngoài đặc biệt, với các tấm dính mầu vàng có đường kính 2 - 10 mm rải rác trên niêm mạc ruột kết chen lẫn với niêm mạc xung huyết từng chỗ. Các sinh thiết cho thấy tình trạng loét biểu mô với một "núi lửa" điển hình dịch rỉ và các bạch cầu trung tính. Trong 10% các trường hợp, viêm ruột kết giả mạc hạn định ở ruột kết phía gần và có thể không thấy khi soi đại tràng sigma.

Các nghiên cứu hình ảnh

Chụp X quang bụng được thực hiện cho các bệnh nhân có các triệu chứng bột phát để tìm bằng chứng về sự giãn to nhiễm độc hoặc bệnh to ruột kết. Phù niêm mạc hoặc "dấu vết ngón cái" có thể thấy rõ.

Chẩn đoán phân biệt

Các nguyên nhân nhiễm khuẩn khác gây tiêu chảy cấp tính là không thường gặp ở các bệnh nhân nằm bệnh viện. Bệnh viêm ruột và viêm ruột kết do thiếu máu cục bộ cũng phải được cân nhắc đến.

Các biến chứng

Bệnh bột phát có thể đưa đến mất nước, mất cân bàng điện giải, to ruột kết nhiễm độc, thủng ruột và chết. Viêm ruột kết mạn tính không được điều trị có thể dẫn đến sụt cân, bệnh ruột mất protein.

Điều trị

Điều trị bệnh cấp tính

Nếu có thể, phải ngừng liệu pháp kháng sinh. Ở các bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ, việc làm như vậy có thể dẫn tới sự tiêu tan nhanh chóng các triệu chứng không cần điều trị đặc hiệu. Nếu tiêu chảy dai dẳng hoặc các triệu chứng nặng, điều trị đặc hiệu là cần thiết. Thuốc tốt nhất là metronidazoI, 250mg uống 4 lần mỗi ngày trong 10 ngày. Vancomycin, 125mg uống 4 lần mỗi ngày cũng có hiệu quả nhưng đắt tiền hơn nhiều.

Đối với những bệnh nhân không thể uống thuốc được, có thể cho metronidazol đường tĩnh mạch, tiêm tĩnh mạch vancomycin không vào tới ruột vì vậy không nên dùng. Sự cải thiện các triệu chứng sẽ xẩy ra trong vòng 72 giờ.

Điều trị đợt giảm bệnh

Có tới 20% các bệnh nhân bị tái phát tiêu chảy đo C. difficile trong vòng 1- 2 tuần sau khi ngừng điều trị lần đầu. Điều này có thể do tái nhiễm khuẩn hoặc khồng triệt căn được vi khuẩn. Phần lớn các tái phát đáp ứng nhanh với đợt điều trị thứ hai bằng metronidazol. Một số bệnh nhân có các đợt tái phát khó điều trị. Một đợt điều trị 4 - 6 tuần bằng vancomycin, sau đó giảm liều chậm trong 1- 2 tháng có thể đem lại kết quả.

Bài viết cùng chuyên mục

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.