- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Viêm màng bụng cấp
Viêm màng bụng cấp
Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán
Đau bụng, nôn, sốt và mệt lử.
Cứng bụng và tăng cảm giác đau (thường đau nẩy lại sau khi sờ) lan toả hoặc khu trú.
Về sau, trướng bụng và tắc ruột do liệt.
Tăng bạch cầu.
Các cân nhắc chung
Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng. Thủng hoặc hoại tử ở đường dạ dày - ruột là nguồn thông thường gây nhiễm khuẩn. Viêm màng bụng hóa học xẩy ra khi viêm tụy cấp và trong các giai đoạn đầu của thủng dạ dày - tá tràng. Viêm màng bụng nhiễm khuẩn tự phát có thể xẩy ra ở các bệnh nhân xơ gan mất bù với cổ trướng, đặc biệt những bệnh nhân có hàm lượng protein cổ trướng dưới 1,1 g/dL. Viêm màng bụng xơ cứng có thể liên kết với bệnh tân sản và một số thuốc (như các thuốc chạn bêta, methysergid).
Phát hiện lâm sàng
Phản ứng toàn thăn. Khó chịu, mệt lử, buồn nôn, nôn, sốt do nhiễm khuẩn, tăng bạch cầu, và mất cân bằng điện giải thường thấy tương xứng với mức độ nặng của bệnh. Nếu không kiểm soát được nhiễm khuẩn thì có thể tiến triển thành nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn.
Các dấu hiệu ở bụng
Đau và nhậy cảm đau ở bụng
Tùy thuộc vào mức độ bị liên quan mà đau và nhậy cảm đau ở bụng có thể là khu trú hay lan tràn, đau bụng khi ho, phản ứng thành bụng phản ánh vùng bị viêm phúc mạc còn phản ứng nhậy cảm đau đối với sờ nắn bụng trên vùng bị viêm là đặc trưng. Viêm phúc mạc vùng chậu đi kèm với nhậy cảm đau ở trực tràng và âm đạo.
Cứng cơ
Các cơ nằm trên vùng viêm thường bị co cứng. Khi viêm màng bụng là toàn thể (như sau thủng ổ loét tiêu hóa), sự cứng rõ rệt của toàn bộ thành bụng có thể phát triển ngay lập tức. Độ cứng thường giảm hay mất đi ở các giai đoạn muộn của viêm màng bụng, trong nhiễm độc máu nặng và khi thành bụng yếu.
Tắc ruột do liệt
Độ di động ruột bị ức chế rõ rệt do viêm màng bụng. Nhu động ruột giảm hoặc mất và trướng căng bụng tăng dần là các dấu hiệu căn bản. Nôn xẩy ra do hậu quả gom góp các chất bài tiết và hơi, phần lớn do nuốt hơi của đường dạ dày - ruột.
Ghi hình ảnh
Các phim bụng cho thấy sự tụ tập hơi và chất lỏng ở cả ruột non và ruột kết, thường giãn to toàn thể hơn là khu trú. Các thành ruột, khi được làm nổi bật do bơm hơi, có thể có vẻ dầy lên, chứng tỏ sự phù nề hoặc có chất dịch màng bụng. Thụt barit nhẹ nhàng sẽ xác định có tắc ruột kết hay không.
Lấy chất dịch trong ổ bụng đề chẩn đoán
Việc thu lấy dịch cổ trướng để đo amylase và protein, nuôi cấy và xét nghiệm tế bào học - bao gồm số tuyệt đối bạch cầu đa nhân trung tính là có ích.
Viêm màng bụng có thể biểu hiện hình ảnh lâm sàng rất khác nhau, phải được phân biệt với tắc ruột cấp tính, viêm túi mật cấp cùng với hoặc không cùng với sỏi ống mật chủ, viêm thùy dưới phổi, viêm tụy, cơn đau quặn thận, xuất huyết dạ dày - ruột, bệnh do porphyrin, sốt định kỳ, hysteria, nhện độc châu Mỹ cắn và các rối loạn hệ thần kinh trung ương (như bệnh tabes lưng).
Các biến chứng
Biến chứng thường gặp nhất của viêm màng bụng là sự tạo nên áp xe ở hố chậu, khoang dưới hoành, giữa các lá của mạc treo hoặc một nơi khác trong ổ bụng. Điều trị kháng sinh có thể ngụy trang hoặc trì hoãn sự xuất hiện của các dấu hiệu khu trú của áp xe. Khi sốt, tăng bạch cầu, nhiễm độc máu hoặc tắc ruột không thuyên giảm với các biện pháp chung của xử lý viêm màng bụng thì phải nghi ngờ có một tích tụ mủ. Điều này thường sẽ đòi hỏi phải dẫn lưu qua da dưới chỉ dẫn của siêu âm hoặc mỡ dẫn lưu. Áp xe gan và viêm tĩnh mạch cửa là những biến chứng hiếm. Các chỗ dính có thể gây ra tắc ruột sớm hoặc thường thấy hơn là tắc ruột muộn.
Điều trị
Các biện pháp sử dụng trong viêm màng bụng như được nêu tóm tắt dưới đây thường được áp dụng như là liệu pháp hỗ trợ trong phần lớn các rối loạn cấp tính vùng bụng. Các mục tiêu là (1) chống nhiễm khuẩn, (2) giảm thiểu các ảnh hưởng của tắc ruột do liệt và (3) hiệu chỉnh các rối loạn chất dịch, điện giải và dinh dưỡng.
Các liệu pháp chuyên biệt
Các thủ thuật ngoại khoa để đóng các lỗ thủng, loại bỏ các nguồn nhiễm khuẩn như ruột loại thư, ruột thừa viêm hoặc để dẫn lưu áp xe thường là cần thiết. Một áp xe khu trú thường có thể được xử lý bằng đặt ống thông qua da dưới chỉ dẫn siêu âm và dẫn lưu.
Các biện pháp chung
Bất kỳ thủ thuật ngoại khoa đặc hiệu nào được sử dụng, sự thành công cuối cùng của chúng thường phụ thuộc vào việc chăm sóc cùng với việc thực hiện các biện pháp chung sau:
Nghỉ ngơi trên giường ở tư thế Fowler trung bình (nửa ngồi) được ưu tiên hơn.
Hút mũi - dạ dày bằng một ống có bình hứng được bắt đầu thực hiện để dự phòng căng chướng dạ dày - ruột. Việc hụt tiếp tục cho đến khi hoạt động nhu động trở lại và bệnh nhân bắt đầu trung tiện.
Không cho ăn uống gì. Việc cho ăn uống có thể tiếp tục từ từ sau khi ngùng hút dạ dày - ruôt.
Liệu pháp truyền dịch và điện giải cùng với nuôi dưỡng đường ngoài ruột là cần thiết.
Phải sử dụng rộng rãi các thuốc ngủ và thuốc an thần để đảm bảo dễ chịu và nghi ngơi.
Liệu pháp kháng sinh: Điều trị kháng sinh ban đặu phải có phổ rộng nhằm khống chế hệ khuẩn chí đường ruột ái khí và yếm khí. Khi có thể nuôi cấy vi khuẩn, các kháng sinh được lựa chọn tùy theo kết quả xét nghiệm tính nhậy với kháng sinh.
Truyền máu được sử dụng khi cần thiết để chống thiếu máu.
Sốc nhiễm khuẩn, nếu xẩy ra đòi hỏi phải điều trị tăng cường.
Tiên lượng
Nếu có thể giải quyết nguyên nhân của viêm màng bụng, thường có thể điều trị nhiễm khuẩn, tắc ruột kèm theo và rối loạn chuyển hóa có kết quả tốt.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm ruột kết loét
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.
Các loại viêm dạ dày đặc trưng
Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.
Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình
Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.
Các khối u dạ dày
Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.
Vòng đai Schatzki và các mang thực quản
Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.
Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo
Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.
Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein
Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột
Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng
Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ
Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập
Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.
Buồn nôn và nôn
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.
Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn
Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng
Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản
Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.
Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát
Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.
Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính
Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.
Hội chứng Zollinger Ellison
Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.
Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết
Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.
Bệnh loét tiêu hóa:
Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.
Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục
Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.
Giãn tĩnh mạch thực quản
Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.
Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn
Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.
Các u của ruột non
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
Viêm thực quản nhiễm khuẩn
Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.
Lao ruột: viêm ruột do lao
Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.