Viêm màng bụng cấp

2016-11-21 01:13 PM

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Đau bụng, nôn, sốt và mệt lử.

Cứng bụng và tăng cảm giác đau (thường đau nẩy lại sau khi sờ) lan toả hoặc khu trú.

Về sau, trướng bụng và tắc ruột do liệt.

Tăng bạch cầu.

Các cân nhắc chung

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng. Thủng hoặc hoại tử ở đường dạ dày - ruột là nguồn thông thường gây nhiễm khuẩn. Viêm màng bụng hóa học xẩy ra khi viêm tụy cấp và trong các giai đoạn đầu của thủng dạ dày - tá tràng. Viêm màng bụng nhiễm khuẩn tự phát có thể xẩy ra ở các bệnh nhân xơ gan mất bù với cổ trướng, đặc biệt những bệnh nhân có hàm lượng protein cổ trướng dưới 1,1 g/dL. Viêm màng bụng xơ cứng có thể liên kết với bệnh tân sản và một số thuốc (như các thuốc chạn bêta, methysergid).

Phát hiện lâm sàng

Phản ứng toàn thăn. Khó chịu, mệt lử, buồn nôn, nôn, sốt do nhiễm khuẩn, tăng bạch cầu, và mất cân bằng điện giải thường thấy tương xứng với mức độ nặng của bệnh. Nếu không kiểm soát được nhiễm khuẩn thì có thể tiến triển thành nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn.

Các dấu hiệu ở bụng

Đau và nhậy cảm đau ở bụng

Tùy thuộc vào mức độ bị liên quan mà đau và nhậy cảm đau ở bụng có thể là khu trú hay lan tràn, đau bụng khi ho, phản ứng thành bụng phản ánh vùng bị viêm phúc mạc còn phản ứng nhậy cảm đau đối với sờ nắn bụng trên vùng bị viêm là đặc trưng. Viêm phúc mạc vùng chậu đi kèm với nhậy cảm đau ở trực tràng và âm đạo.

Cứng cơ

Các cơ nằm trên vùng viêm thường bị co cứng. Khi viêm màng bụng là toàn thể (như sau thủng ổ loét tiêu hóa), sự cứng rõ rệt của toàn bộ thành bụng có thể phát triển ngay lập tức. Độ cứng thường giảm hay mất đi ở các giai đoạn muộn của viêm màng bụng, trong nhiễm độc máu nặng và khi thành bụng yếu.

Tắc ruột do liệt

Độ di động ruột bị ức chế rõ rệt do viêm màng bụng. Nhu động ruột giảm hoặc mất và trướng căng bụng tăng dần là các dấu hiệu căn bản. Nôn xẩy ra do hậu quả gom góp các chất bài tiết và hơi, phần lớn do nuốt hơi của đường dạ dày - ruột.

Ghi hình ảnh

Các phim bụng cho thấy sự tụ tập hơi và chất lỏng ở cả ruột non và ruột kết, thường giãn to toàn thể hơn là khu trú. Các thành ruột, khi được làm nổi bật do bơm hơi, có thể có vẻ dầy lên, chứng tỏ sự phù nề hoặc có chất dịch màng bụng. Thụt barit nhẹ nhàng sẽ xác định có tắc ruột kết hay không.

Lấy chất dịch trong ổ bụng đề chẩn đoán

Việc thu lấy dịch cổ trướng để đo amylase và protein, nuôi cấy và xét nghiệm tế bào học - bao gồm số tuyệt đối bạch cầu đa nhân trung tính là có ích.

Viêm màng bụng có thể biểu hiện hình ảnh lâm sàng rất khác nhau, phải được phân biệt với tắc ruột cấp tính, viêm túi mật cấp cùng với hoặc không cùng với sỏi ống mật chủ, viêm thùy dưới phổi, viêm tụy, cơn đau quặn thận, xuất huyết dạ dày - ruột, bệnh do porphyrin, sốt định kỳ, hysteria, nhện độc châu Mỹ cắn và các rối loạn hệ thần kinh trung ương (như bệnh tabes lưng).

Các biến chứng

Biến chứng thường gặp nhất của viêm màng bụng là sự tạo nên áp xe ở hố chậu, khoang dưới hoành, giữa các lá của mạc treo hoặc một nơi khác trong ổ bụng. Điều trị kháng sinh có thể ngụy trang hoặc trì hoãn sự xuất hiện của các dấu hiệu khu trú của áp xe. Khi sốt, tăng bạch cầu, nhiễm độc máu hoặc tắc ruột không thuyên giảm với các biện pháp chung của xử lý viêm màng bụng thì phải nghi ngờ có một tích tụ mủ. Điều này thường sẽ đòi hỏi phải dẫn lưu qua da dưới chỉ dẫn của siêu âm hoặc mỡ dẫn lưu. Áp xe gan và viêm tĩnh mạch cửa là những biến chứng hiếm. Các chỗ dính có thể gây ra tắc ruột sớm hoặc thường thấy hơn là tắc ruột muộn.

Điều trị

Các biện pháp sử dụng trong viêm màng bụng như được nêu tóm tắt dưới đây thường được áp dụng như là liệu pháp hỗ trợ trong phần lớn các rối loạn cấp tính vùng bụng. Các mục tiêu là (1) chống nhiễm khuẩn, (2) giảm thiểu các ảnh hưởng của tắc ruột do liệt và (3) hiệu chỉnh các rối loạn chất dịch, điện giải và dinh dưỡng.

Các liệu pháp chuyên biệt

Các thủ thuật ngoại khoa để đóng các lỗ thủng, loại bỏ các nguồn nhiễm khuẩn như ruột loại thư, ruột thừa viêm hoặc để dẫn lưu áp xe thường là cần thiết. Một áp xe khu trú thường có thể được xử lý bằng đặt ống thông qua da dưới chỉ dẫn siêu âm và dẫn lưu.

Các biện pháp chung

Bất kỳ thủ thuật ngoại khoa đặc hiệu nào được sử dụng, sự thành công cuối cùng của chúng thường phụ thuộc vào việc chăm sóc cùng với việc thực hiện các biện pháp chung sau:

Nghỉ ngơi trên giường ở tư thế Fowler trung bình (nửa ngồi) được ưu tiên hơn.

Hút mũi - dạ dày bằng một ống có bình hứng được bắt đầu thực hiện để dự phòng căng chướng dạ dày - ruột. Việc hụt tiếp tục cho đến khi hoạt động nhu động trở lại và bệnh nhân bắt đầu trung tiện.

Không cho ăn uống gì. Việc cho ăn uống có thể tiếp tục từ từ sau khi ngùng hút dạ dày - ruôt.

Liệu pháp truyền dịch và điện giải cùng với nuôi dưỡng đường ngoài ruột là cần thiết.

Phải sử dụng rộng rãi các thuốc ngủ và thuốc an thần để đảm bảo dễ chịu và nghi ngơi.

Liệu pháp kháng sinh: Điều trị kháng sinh ban đặu phải có phổ rộng nhằm khống chế hệ khuẩn chí đường ruột ái khí và yếm khí. Khi có thể nuôi cấy vi khuẩn, các kháng sinh được lựa chọn tùy theo kết quả xét nghiệm tính nhậy với kháng sinh.

Truyền máu được sử dụng khi cần thiết để chống thiếu máu.

Sốc nhiễm khuẩn, nếu xẩy ra đòi hỏi phải điều trị tăng cường.

Tiên lượng

Nếu có thể giải quyết nguyên nhân của viêm màng bụng, thường có thể điều trị nhiễm khuẩn, tắc ruột kèm theo và rối loạn chuyển hóa có kết quả tốt.

Bài viết cùng chuyên mục

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn