- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng
Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng
Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thuật ngữ viêm dạ dày là một thuật ngữ bao hàm rộng, mơ hồ và có sự mập mờ về ngữ nghĩa. Các nhà nội soi dùng từ này để chỉ một số đặc điểm rõ ràng của niêm mạc như là đỏ, xuất huyết dưới biểu mô, và chỗ xói mòn; đối với nhà nghiên cứu bệnh học, từ này chỉ viêm nhiễm của mô. Để làm sáng sủa hơn trong thảo luận lâm sàng này, viêm dạ dày có thể được xếp thành ba loại: (1) viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết; (2) viêm dạ dày không ăn mòn, không đặc trưng (viêm dạ dày mạn tính); và (3) các loại đặc trưng như là viêm dạ dày do nhiễm khuẩn, viêm dạ dày u hạt, viêm dạ dày ưa eosin và bệnh Menetrier (bệnh dạ dày phì đại).
Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc. Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường và không đoán trước một cách tin cậy về sự có mặt của viêm nhiễm mô học. Viêm dạ dày mạn được chia thành hai loại: loại B chủ yếu bao gồm vùng hang dạ dày nhưng có thể bao gồm toàn bộ dạ dày; và loại A, chỉ gồm phần bài tiết acid ở phía gần của dạ dày. Nguyên nhân chủ yếu của viêm dạ dày loại B là vi khuẩn gam âm, Helicobacter pylori. Thiếu máu ác tính là nguyên nhân chủ yếu của viêm dạ dày loại A.
Viêm dạ dày do Helicobacter pylori mạn tính
Chẩn đoán mô học của viêm dạ dày do H. pylori dựa trên các sinh thiết nội soi. Phần lớn các bệnh nhân nhiễm khuẩn không có triệu chứng. Có sự liên kết chặt chẽ với sự phát triển bệnh loét tiêu hóa.
Pylori là một xoắn khuẩn gam âm sống ở dưới lớp niêm mạc dạ dày sát cạnh các tế bào biểu mô. Nó gây ra viêm niêm mạc dạ dày sát cạnh các tế bào lympho và bạch cầu đa nhân. Các cơ chế bệnh sinh của tổn thương chưa được xác lập. Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ lưu hành nhiễm khuẩn H pylori tăng lên theo tuổi, 1% cho 1 tuổi, tăng lên tới dưới 10% ở người da tráng dưới tuổi 30 tới trên 50% ở những người quá 60 tuổi. Tỷ lệ lưu hành bệnh cao hơn ở người da mầu và cũng cao hơn ở các nước đang phát triển, và có mối tương quan nghịch với tầng lớp kinh tế - xã hội.
Sự lây truyền là từ người này sang người khác nhưng phương thức lan rộng vẫn chưa được rõ. Ở một số bệnh nhân, viêm mạn tính tiến triển đến teo tuyến dạ dày (viêm dạ dày teo) và dị sản biểu mô dạ dày tới biểu mô ruột. Viêm dạ dày do H pylori mạn tính với dị sản ruột có liên quan với nguy cơ tăng gấp 4 - 6 lần bị ung thư tuyến dạ dày.
Nhiễm khuẩn cấp tính H. pylori gây đau yếu lâm sàng thoáng qua với buồn nôn và đau bụng, có thể kéo dài năm bẩy ngày và kèm theo viêm dạ dày cấp về mô học. Sau khi các triệu chứng tiêu tan, tỷ lệ những người bệnh nhiễm khuẩn cấp tính tiến triển tới nhiễm khuẩn mạn tính thì chưa rõ.
Nhiễm H. pylori mạn tính với viêm dạ dày hiện có ở 30 - 50% nhân dân. Tuyệt đại đa số nhân dân không phát triển các triệu chứng hoặc di chứng. Nhiễm H. pylori liên kết chặt chẽ với sự phát triển bệnh loét tiêu hóa, điều này được thảo luận dưới đây. Hiện nay không có chứng cứ có ý nghĩa nào cho thấy rằng viêm dạ dày H. pylori gây ra các triệu chứng khó tiêu ở các bệnh nhân không bị bệnh loét ("khó tiêu không loét").
Không có những bất thường đặc trưng nào về xét nghiệm. Các kháng thể IgG và Ig A huyết thanh đối với H. pylori được phát hiện bằng ELISA và có độ nhạy cao. Chúng được sử dụng trong nghiên cứu dịch tễ học và cho đến nay có mức độ sử dụng hạn chế trong lâm sàng.
Hiện nay, chỉ định duy nhất để điều trị nhiễm H. pylori là dành cho những người bị loét tiêu hóa có H. pylori được phát hiện bằng nhiều phương tiện xâm nhập và không xâm nhập. Trong nội soi, các sinh thiết niêm mạc hang vị có thể được lượng giá tìm hoạt động urease bằng cách bỏ chúng vào một môi trường nhậy cảm pH (test sinh vật giống như Campylobacter, hoặc test CLO) sản phẩm ammoniac làm biến đổi mầu trong môi trường trong khoảng 1- 3 giờ là chứng cớ suy đoán có H. pylori. Test đơn giản, nhanh và không tốn kém này có độ nhạy và độ đặc hiệu trên 90% và là phướng pháp nội soi được ưa thích trong khung cảnh lâm sàng. Lượng giá mô học các sinh thiết hang vị là thủ tực phát hiện chính xác H. pylori nhưng tốn kém hơn test CLO. Nó được dành cho các bệnh nhân nghi nhiễm khuẩn có các test CLO âm tính. Nuôi cấy H. pylori trong các sinh thiết niêm mạc thì kém nhạy bén và tốn kém hơn các test khác nên hiếm được sử dụng. Các test hơi thở tìm 14C- và 13C- urê, không xâm nhập đã được phát triển nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Chúng có độ nhậy và tính đặc hiệu có thể sánh với các test nội soi. Trong tương lai, chúng có thể trở thành các test lựa chọn trong cả việc kiểm tra nhiễm khuẩn H. pylori và để xác minh việc tiệt căn vi khuẩn sau liệu pháp kháng khuẩn. Một xét nghiệm ELISA tìm các kháng thể IgG và IgA huyết thanh là sẵn có trong lâm sàng. Cho đến nay, thử nghiệm huyết thanh được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu dịch tễ học. Sau khi đã triệt căn thành công H. pylori bằng các kháng sinh, các mức độ kháng thể giảm dần đi trong 6 - 12 tháng nhưng có thể vẫn còn là dương tính.
Có thể đạt tới điều trị căn nguyên thành công H. pylori ở hơn 85% các bệnh nhân với sự phối hợp hai kháng sinh và bismuth đối với subsalicylat (Pepto - Bismol). Các chế độ cụ thể được nêu ra trong phần bệnh loét tiêu hóa. Sau khi điều trị căn nguyên viêm dạ dày mạn tính sẽ hết sau. Hiện giờ, chỉ định duy nhất về điều trị viêm dạ dày do H. pylori là cho các bệnh nhân bị loét tiêu hóa.
Thiếu máu ác tính
Thiếu máu ác tính là do viêm dạ dày tự miễn dịch gây tổn thương các tuyến đáy vị với hậu quả thiếu acid clohydric và kém hấp thu vitamin B12. Xét nghiệm mô học đáy vị có đặc điểm là teo các tuyến nặng. Các kháng thể tế bào thành được hướng chống lại bơm H+ - K+ adenosine triphosphatase có mặt ở 90% các bệnh nhân. Thiếu acid clohydric dẫn tới lăng gastrin huyết rõ rệt (> 1000 picogram/mL) do mất ức chế các tế bào gastrin. Tăng sản các tế bào ưa crôm giống như ở ruột của dạ dày thường xẩy ra và có thể quy cho tăng gastrin huyết. 3 - 5% số bệnh nhân phát triển các u nhỏ ở dạ dày, nhiều tâm, dạng ung thư. Sự lan rộng di căn ít gặp trong u dạng ung thư chỉ có đường kính nhỏ hơn 2 cm. Nguy cơ ung thư tuyến cũng tăng lên nhẹ, nhưng nó đã được quá nhấn mạnh. Nội soi với sinh thiết được chỉ định cho những bệnh nhân thiếu máu ác tính khi làm chẩn đoán. Các bệnh nhân có dị sản hoặc các u dạng ung thư nhỏ đòi hỏi sự giám sát nội soi thường kỳ. Thiếu máu ác tính được thảo luận chi tiết ở bài khác.
Bài viết cùng chuyên mục
Các u của ruột non
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
Hội chứng ruột kích ứng
Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.
Hơi dạ dày ruột
Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.
Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập
Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.
Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)
Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.
Buồn nôn và nôn
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.
Viêm ruột thừa
Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.
Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình
Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.
Nấc
Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.
Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới
Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.
Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng
Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.
Bệnh Crohn
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.
Không giãn co thắt thực quản dưới
Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.
Viêm túi thừa ruột kết
Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.
Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình
Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.
Hội chứng Zollinger Ellison
Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.
Viêm màng bụng cấp
Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.
Viêm ruột kết loét
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.
Bệnh viêm ruột
Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.
Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn
Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất
Túi thừa và các khối u lành tính thực quản
Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.
Lao ruột: viêm ruột do lao
Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.
Tắc đường ra của dạ dày
Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.
Giãn phình mạch đường ruột
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.