Tiêu chảy cấp tính

2016-11-19 11:17 AM

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tiêu chảy là một triệu chứng thông thường có thể xếp loại theo mức độ nặng từ mức phiền toái cấp tính có giới hạn đến mức nặng, đe dọa tính mạng. Các bệnh nhân có thể dùng từ "tiêu chảy" để nói đến số lần đại tiện tăng, tăng độ lỏng của phân, một cảm giác thải phân khẩn cấp, hoặc không kiềm chế được phân (nín lá). Để đánh giả thích đáng điều than phiền, thầy thuốc phải xác định được mô hình đại tiện bình thường của bệnh nhân và bản chất của các triệu chứng hiện tại.

Trong trạng thái bình thường, xấp xỉ 10 lít chất lỏng đi vào tá tràng hàng ngày, trong đó 1,5 lít được ruột non hấp thụ. Ruột kết hấp thụ phần lớn lượng chất lỏng còn lại, và chỉ 100 mL mất đi trong phân. Từ quan điểm y học, tiêu chảy được định nghĩa là trọng lượng phân lớn hơn 250g/24 giờ. Trong thực tế, việc định lượng phân chỉ cần thiết ở một số bệnh nhân bị tiêu chảy mạn tính. Trong phần lớn các trường hợp, định nghĩa được chấp nhận về tiêu chảy là tăng số lần đại tiện (hơn 2 hoặc 3 lần một ngày) hoặc phân lỏng.

Các nguyên nhân tiêu chảy là vô vàn. Trong thực tế lâm sàng, điều có ích là phân biệt giữa tiêu chảy cấp tính và mạn tính vì sự đánh giá và điều trị là hoàn toàn khác nhau.

Nguyên nhân và các phát hiện lâm sàng

Tiêu chảy bắt đầu cấp tính và kéo dài dưới 3 tuần thường gặp nhất gây ra do các tác nhân nhiễm khuẩn, các độc tố vi khuẩn (hoặc sẵn có trong thức ăn hoặc sản xuất ra trong ruột); các thông tin dịch tễ học có thể cung cấp đầu mối cho tác nhân gây bệnh. Bệnh tương tự mới đây trong gia đình làm nghĩ đến nguồn gốc nhiễm khuẩn. Việc mới ăn thực phẩm được dự trữ hoặc chế biến không đúng đắn, dính líu với ngộ độc thức ăn, đặc biệt nếu những người khác cũng bị bệnh tương tự. Tiếp xúc với nước không thanh lọc (cắm trại, bơi) có thể đưa đến nhiễm Giardia hoặc Cryptosporodium. Cuộc du lịch nước ngoài mới đây làm nghĩ đến "tiêu chảy của du khách". Việc cho kháng sinh trong nhiều tuần trước làm tăng khả năng chắc chắn về viêm ruột kết do Clostridium difficile. Cuối cùng, các nhân tố nguy cơ về nhiễm HIV hoặc các bệnh lây truyền đường tình dục phải được xác định (tiêu chảy liên quan với AIDS). Những người thực hành giao hợp đường hậu môn không bảo vệ có nguy cơ cao bị nhiều bệnh nhiễm khuẩn bao gồm lậu, giang mai, bệnh lympho hạt (Hodgkin) và herpes simplex. Nhiều thuốc có thể gây tiêu chảy qua những cơ chế khác nhảu và không nêm xem nhẹ, các thuốc này không được bàn luận thêm ở đây. Bản chất của tiêu chảy giúp phân biệt các nguyên nhân nhiễm khuẩn khác nhau.

Tiêu chảy không do viêm

Tiêu chảy loãng nước, có máu liên kết với co thắt quanh rốn, chướng bụng, buồn nôn hoặc nôn (riêng rẽ hay kết hợp) làm nghĩ đến viêm ruột non gây ra do vi khuẩn sinh độc tố (E coli sinh dộc tố [ETEC], tụ cầu khuẩn vàng, Bacillus cereus, C. perfringens) hoặc các nhân tố khác (virus, Giardia) làm rối loạn sự hấp thụ bình thường và quá trình bài tiết trong ruột non. Nôn nhiều làm nghĩ đến viêm ruột do virus hoặc S. aureus (tụ cầu vàng) gây ngộ độc thức ãn. Mặc dầu nói chung là nhẹ, tiêu chảy (bắt nguồn từ trong ruột non) có thể có khối lượng lớn (trong phạm vi 10 - 200mL/kg/24 giờ) dẫn đến mất nước, giảm kali huyết và nhiễm toan chuyển hóa do mất HC03- trong phân (như bệnh tả). Do không có sự xâm nhập vào mô nên không có các bạch cầu trong phân.

Tiêu chày do viêm

Sự xuất hiện sốt và tiêu chảy có máu (lỵ) chứng tỏ có tổn thương mô ruột kết gây ra do sự xâm nhập (bệnh do lỵ trực khuẩn Shigella, salmonella, nhiễm khuẩn Campylobacter hoặc Yersinia, bệnh amip) hoặc một độc tố (C. difficile, E. coli 0157: H7). vì các vi sinh vật này chủ yếu gây tổn thương ruột kết, tiêu chảy có khối lượng nhỏ (< 1L/ngày) và liên kết với co thắt phần tư dưới bên trái bụng, thúc bách buốt mót đại tiện. Các bạch cầu ở phân xuất hiện trong các nhiễm khuẩn có xâm nhập của vi sinh vật. E. coli 0157: H7 là những vi khuẩn sinh độc tố không xâm nhập, có thể lây truyền do thịt bị ô nhiễm và đưa đến những cơn bột phát viêm ruột kết xuất huyết cấp tính, thường là nặng, ở các bệnh nhận bị tổn hại miễn dịch và nhiễm HIV, các thức ăn có thịt ô nhiễm có thể gây loét ruột với tiêu chảy loãng nước và có máu.

Sốt thương hàn

Một bệnh toàn thân nặng biểu hiện ban đầu bằng sốt cao kéo dài, mệt lử, lú lẫn, các triệu chứng hô hấp sau đó tăng cảm giác đau ở bụng, tiêu chảy, phát ban. Do nhiễm Salmonella Typhi hoặc Salmonella Paratyphi gây ra nhiễm khuẩn huyết và rối loạn chức năng nhiều cơ quan.

Đánh giá

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy. Trong những trường hợp này, việc nghiên cứu xét nghiệm để xác định tác nhân gây bệnh là không cần thiết vì nó gây tốn kém, thường không phát hiện được gì và không có tác dụng điều trị. Thật vậy, tỷ lệ phân lập vi khuẩn gây bệnh từ các mẫu nuôi cấy phân ở các bệnh nhân tiêu chảy cấp tính là dưới 3%. Như vậy, mục tiêu đánh giá ban đầu là phân biệt các bệnh nhân này với các bệnh nhân mắc bênh nặng hơn. Ở nhiều phòng khám bệnh ngoại trú, soi hiển vi phân tìm các bạch cầu trong phân được thực hiện để phân biệt tiêu chảy không viêm với tiêu chảy viêm. Sự xuất hiện bạch cầu làm nghĩ đến tiêu chảy do viêm và chứng tỏ sự cần thiết của nuôi cấy vi khuẩn ở phân.

Bảng. Các nguyên nhân gây tiêu chảy nhiễm khuẩn cấp tính

(1) Tiêu chảy không do viêm

Virus

Virus Norwalk.

Virus giống Norwalk.

Rotavirus.

Nguyên sinh động vật

Giardia lamblia.

Cryptosporidium.

Vi khuẩn

Sản xuất ra độc tố ruột từ trước.

+ Tụ cầu khuẩn vàng (S. aureus).

+ Bacillus cereus.

+ Clostridium pertringens.

Sản xuất ra độc tố ruột

+ E. coli sinh dộc tố ruột (ETEC).

+ Phảy khuẩn tả (Vibrio cholerae).

(2) Tiêu chảy do viêm

Virus

Cytomegalovirus

Nguyên sinh động vật

Entamoeba histolytica.

Vi khuẩn

Sản xuất ra độc tố tế bào.

+ Xuất huyết ruột.

+ E. coli 0 157: H7 (EHEC).

+ Phảy khuẩn parahaemolyticus.

+ Clostridium ditticile.

Xâm nhập niêm mạc.

+ Shigella.

+ Campylobacter jejum (hỗng tràng).

+ Salmonella.

+ E. coli xâm nhập ruột (EIEC).

+ Aeromonas.

+ Plesiomonas.

+ Yersinia enterocolitica.

+ Chlamydia.

+ Neisseria gonorhoeae.

Các bệnh nhân có các dấu hiệu tiêu chảy do viêm biểu hiện bằng bất kỳ các đặc điểm sau đây đòi hỏi sự quan tâm y học kịp thời: sốt cao (> 38,5°C), tiêu chảy có máu, đau bụng hoặc tiêu chẩy không giảm sau 4 - 5 ngày. Tương tự như vậy, các bệnh nhân có các triệu chứng mất nước phải được đánh giá (khát quá nhiều, miệng khô, giảm tiểu tiện, yếu đuối, đờ đẫn). Việc thăm khám thực thể phải chú ý vẻ ngoài chung của bệnh nhân, trạng thái tâm trí, khối lượng cơ thể, xuất hiện đau bụng khi chạm vào bụng hoặc viêm màng bụng. Các phát hiện màng bụng thấy khi bệnh do C. difficile và E. coli xuất huyết ruột. Cần cho nhập viện các bệnh nhân bị mất nước nặng, có nhiễm độc hoặc đau bụng. Các mẫu phân phải được gửi trong mọi trường hợp để xét nghiệm tìm bạch cầu trong phân và nuôi cấy vi khuẩn. Tỷ lệ nuôi cấy vi khuẩn dương tính ở các bệnh nhân bị lỵ là 60 - 75%. Một xét nghiệm soi phân ướt tìm amíp cũng được làm cho các bệnh nhân nghi bệnh lỵ có tiền sử du lịch tới các vùng có bệnh lưu hành hoặc những người luyến ái đồng tính, ở các bệnh nhân có tiền sử tiếp xúc với các kháng sinh, mẫu phân làm để tìm độc tố C. difficile. Nếu nghi ngờ E coli 0157: H7, labô phải cảnh giác làm định loại huyết thanh đặc trưng. Ở các bệnh nhân tiêu chảy kéo dài trên 10 ngày, ba lần xét nghiệm phân được thực hiện để tìm các trứng và ký sinh vật. Gạc thấm trực tràng được gửi xét nghiệm tìm Chlamydia, Neisseria gonorrhoeae và virus herpes simplex ở những người đang độ tuổi hoạt động tinh dục bị viêm trực tràng nặng.

Nội soi đại tràng sigma là có lý do chính đáng được làm ngay cho các bệnh nhân có các triệu chứng viêm trực tràng nặng (buốt mót, chảy mủ, đau trực tràng) và cho các bệnh nhân nghi viêm ruột kết do C. difficile nặng. Phân biệt tiêu chảy nhiễm khuẩn với tiêu chảy do viêm loét ruột kết và viêm ruột kết thiếu máu cục bộ.

Điều trị

Chế độ ăn

Đa số những người lớn bị tiêu chảy nhẹ, sẽ không dẫn tới mất nước miễn là họ uống đủ chất lỏng có cacbonhydrat và các chất điện giải. Các bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn để cho ruột nghi ngơi bằng cách tránh các thức ăn nhiều xơ, mỡ, sản phẩm sữa, cafein và rượu. Các bữa ăn thường xuyên với các đồ uống nước quả, chè, các đồ uống có cacbonat không sủi bọt, các thực phẩm dễ tiêu (như xúp, bánh quy) được khuyến khích.

Bảng. Các bạch cầu ở phân trong các rối loạn đường ruột

(1) Nhiễm khuẩn     

Shigella.

Campylobacter.

E coli xâm nhập ruột (EIEC).

Có thể thay đổi

Salmonella.

Yersinia.

Vibrio parahaemolytica.

Clostridium ditficile.

Aeromonas.

Không có

Virus Norwalk

Rotavirus.

Giardia lamblia.

Entamoeba histolitica.

Cryptosporidium.

Ngộ độc thức ăn.

+ Tụ cầu vàng.

+ Bacillus cereus.

+ Clostridium pertringens.

Escherlchia coli.

+ Độc ruột (ETEC).

+ Xuất huyết ruột (EHEC) cục bộ.

(2) Không nhiễm khuẩn

Viêm loét ruột kết.

Bệnh Crohn.

Viêm ruột kết do chiếu xạ.

Viêm ruột kết thiếu máu.

Viêm ruột kết thiếu máu cục bộ.

Bù nước

Trong tiêu chảy nặng hơn, mất nước có thể xảy ra nhanh, đặc biệt là ở trẻ em. Bù nước đường uống với các chất lỏng chứa glucose, Na+, K+, Cl- và bicacbonat hoặc citrat được thích dùng trong phần lớn các trường hợp hơn là truyền dịch tĩnh mạch vì nó không tốn kém, an toàn và có hiệu quả cao cho phần lớn các bệnh nhân tinh táo. Một hỗn hợp dễ làm là 1/2 thìa cà phê muối (3,5g) một thìa cà phê Natri bicacbonat dùng trong nấu nướng (2,5g NaHCO3), 8 thìa càphê đường (40g), và 237g nước cam (1,5g KCl) hòa tan trong 1L nước. Theo lựa chọn, các dung dịch điện giải luôn luôn có sẵn sàng để mua. Các chất lỏng phải được cho với tốc độ 50 - 200 ml /kg/24 giờ tùy theo tình trạng mất nước. Người ta ưa dùng nhiều hơn cho các bệnh nhân bị mất nước nặng các dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch (dung dịch lactat Ringer).

Các thuốc chống tiêu chảy

Có thể dùng một cách an toàn các tác nhân chống tiêu chảy cho các bệnh nhân bị bệnh nhẹ tới trung bình để làm cho bệnh nhân được dễ chịu hơn. Các tác nhân dạng thuốc phiện giúp làm giảm số lần đại tiện và độ lỏng, làm hết thôi thúc cấp bách đại tiện. Song, các thuốc này không được dùng cho những bệnh nhân đại tiện ra máu, sốt cao hoặc nhiễm độc toàn thân vì có thể làm bệnh nặng hơn. Cũng như vậy, phải ngừng dùng các thuốc này cho các bệnh nhân mà tiêu chảy nặng thêm tuy đã điều trị. Với các quy định này, các tác nhân này cung cấp việc làm giảm các triệu chứng rất tốt. Loperamid là thuốc được ưa dùng, liều ban đầu 4mg, sau đó 2mg sau mỗi lần đi phân lỏng (tối đa: 16mg/24 giờ).

Bismuth subsalicylat (Pepto - Bismol), 2 viên hoặc 30ml 4 lần mỗi ngày, làm giảm các triệu chứng ở bệnh nhân bị tiêu chảy du khách với các tính chất kháng vi khuẩn; vai trò của nó ở các khung cảnh khác chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nhiều tác nhân khác đã được giới thiệu quảng cáo về tác dụng chống ỉa chảy đã qua thử nghiệm kiểm chứng chút ít hoặc không kiểm chứng nhưng có vẻ có lợi ích tối thiểu hoặc không làm giảm các triệu chứng (lactobacilli, kaolin, pectin). Các tác nhân chống tiết cholin là chống chỉ định dùng cho tiêu chảy cấp tính (như diphenoxylat với atropin).

Điều trị bằng các kháng sinh

(1) Điều trị theo kinh nghiệm.

Vì đa số các bệnh nhân là mắc bệnh nhẹ, tự khỏi do virus hoặc các vi khuẩn không xâm nhập, điều trị theo kinh nghiệm bằng các kháng sinh cho tất cả bệnh nhân bị tiêu chảy cấp tính là không có lý do xác đáng. Kể cả các bệnh nhân bị tiêu chảy do viêm gây ra do các vi sinh vật gây bệnh thường là nhẹ có thể khỏi bệnh trong nhiều ngày không cần điều trị đặc hiệu. Ngược lại, ở các bệnh nhân có vẻ có những dấu hiệu về vi sinh vật gây bệnh xâm nhập, với các triệu chứng trung bình và nặng với sốt, mót rặn, phân có máu, các bạch cầu trong phân thì nên được điều trị theo kinh nghiệm trong khi nuôi cấy vi khuẩn phân đang triển khai. Các thuốc tốt nhất là các fluoroquinolon (Ciprofloxacin, 500mg hai lần mỗi ngày) trong 5 - 7 ngày. Các tác nhân này cung cấp sự bao phủ kháng sinh chống các vi khuẩn gây bệnh xâm nhập mạnh nhất bao gồm Shigella, Salmonella, Campylobacter, Yersinia, và Aeromonas. Các tác nhân thay thế là trimethoprim - sulfamethoxazol, 160/800mg 2 lần mỗi ngày hoặc erythromycin, 250/500mg 4 lần mỗi ngày.

(2) Điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu.

Các kháng sinh thường không được khuyên dùng cho các bệnh nhân bị nhiễm Salmonella không gây thương hàn, campylobacter hoặc Yersinia chỉ trừ trong bệnh nặng, kéo dài vì chúng đã không chứng tỏ làm nhanh hồi phục hoặc giảm thời gian bài tiết vi khuẩn ra theo phân. Các bệnh nhiễm khuẩn được khuyên dùng kháng sinh rõ ràng là bệnh shigella, tả, salmonella ngoài đường ruột, tiêu chảy của "du khách", nhiễm khuẩn C. difficile, bệnh giardia, bệnh amip, các bệnh lây truyền đường sinh dục (nhiễm khuẩn lậu, giang mai, chlamydia, và herpes simplex). Điều trị đặc hiệu cho các nhiễm khuẩn này được trình bầy ở các chương khác của sách này.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.