- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn
Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn
Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Sa trực tràng và loét trực tràng đơn độc
Sa trực tràng không phải là một vấn đề thông thường, đặc biệt ở những người già và có một tiền sử dài bị táo bón và gắng rặn căng thẳng. Các cấu trúc nâng đỡ của vùng trực tràng - hậu môn thường trở nên yếu, dẫn tới lồng trực tràng khi gắng rặn. Biểu hiện sớm của sa trực tràng có thể là loét trực tràng đơn độc - một tình trạng đau với việc sinh loét có vẻ là thứ phát do lông ruột.
Xử trí bao gồm việc mổ để sửa lại hệ thống nâng đỡ bị lỏng lẻo.
Nứt hậu môn
Các nứt hậu môn là rách theo đường thẳng của biểu mô hậu môn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chúng thường tự hết nếu đại tiện được duy trì đều đặn và phân mềm (bằng bổ sung vào chế độ ăn nhiều chất xơ, cám, chế phẩm hạt mã đề bọ chét). Bôi tại chỗ bằng chất làm se da nhẹ như là nitrat bạc 1- 2% hoặc dung dịch thuốc tím gentian 1% có thể có giá trị.
Nứt hậu môn mạn tính có đặc điểm là: (1) đau cấp tính trong khi và sau khi đại tiện; (2) chấm vệt máu đỏ tươi ở phân, đôi khi xuất huyết nhiều hơn; (3) xu hướng gây táo bón do sợ đau; và (4) sự xẩy ra chậm về sau dom (trĩ), ruột nhú phì đại và co thắt của ống hậu môn (thường rất đau khi khám bằng ngón tay). Việc điều chỉnh các thói quen đại tiện bằng sử dụng cám hay chế phẩm hạt mã đề bọ chét (psyllium) trong chế độ ăn hoặc sử dụng các chất làm mềm phân, ngồi ngâm hoặc đặt thuốc đạn hậu môn (như Anusol) hai lần mỗi ngày phải được thử. Nếu các biện pháp hày thất bại, vết nứt, dom trĩ hoặc nhú và hốc tuyến kế cận phải được phẫu thuật cát đi. Chăm sóc sau mổ theo như cách điều trị trước mổ.
Áp xe hậu môn
Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại. Ngồi ngâm nóng có thể làm nhanh quá trình khu trú. Phải báo cho bệnh nhân biết rằng đường rò có thể tiếp tục tồn tại sau khi dẫn lưu áp xe. Sẽ gây đau đớn và vô ích khi tìm lỗ bên trong của đường rò khi đang có nhiễm khuẩn cấp tính. Sự có mặt của áp xe hậu môn phải báo động nhà lâm sàng về khả năng của bệnh viêm ruột, đặc biệt là bệnh Crohn.
Đường rò hậu môn
Khoảng 35% tất cả đường rò hậu môn phát sinh ra ở một hốc tuyến hậu môn, và chúng thường có một áp xe hậu môn đi trước. Nếu một đường rò hậu môn đi vào trực tràng phía trên đường hình lược, và không có bệnh liên kết ở các hốc tuyến, cần phải xem xét chẩn đoán phân biệt viêm ruột kết có hạt, viêm hồi tràng khu vực, lao trực tràng, u lympho hạt hoa liễu, ung thư, hoặc dị vật.
Đường rò cấp tính đi kèm với sự chảy rỉ mủ ra từ lỗ đường rò. Thường có ngứa, tăng cảm giác đau hoặc đau tại chỗ, nặng thêm lên khi đại tiện. Áp xe hậu môn tái phát có thể phát triển. Hốc tuyến đôi khi có thể được định vị bằng nội soi hậu môn với một cái móc hốc. Thông đường rò phải thật nhẹ nhàng vì dễ gây ra đường đi chệch và trong mọi trường hợp, việc chứng minh lỗ trong của đường rò bằng cách đặt ống thông là không cần thiết cho chẩn đoán.
Điều trị thường là phẫu thuật rạch vào hoặc cắt bỏ đường rò có gây mê toàn thân. Nếu một đường rò đi sâu vào vòng hậu môn trực tràng toàn bộ, làm cho tất cả các cơ phải tách rời ra để loại bỏ được đường rò, thì phải tiến hành phẫu thuật làm hai giai đoạn để ngăn ngừa nguy cơ bị mất tự chủ đại tiện.
Bài viết cùng chuyên mục
Tiêu chảy mạn tính
Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).
Lao ruột: viêm ruột do lao
Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.
Viêm màng bụng cấp
Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.
Giãn phình mạch đường ruột
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.
Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết
Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.
Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới
Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.
Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình
Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.
Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn
Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng
Chứng khó tiêu
Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.
Các u của ruột non
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.
Tắc đường ra của dạ dày
Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.
Viêm ruột thừa
Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.
Các tổn thương ác tính ở thực quản
Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.
Hội chứng Zollinger Ellison
Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.
Giãn tĩnh mạch thực quản
Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.
Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng
Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.
Hơi dạ dày ruột
Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.
Buồn nôn và nôn
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.
Co thắt thực quản lan tỏa
Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.
Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục
Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.
Hội chứng ruột kích ứng
Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.
Tắc ruột non thực thể cấp tính
Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.
Bệnh loét tiêu hóa:
Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.