Chảy máu túi thừa ruột kết

2016-11-26 09:13 PM

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh túi thừa ruột kết thường thấy ở hơn một phần ba các bệnh nhân trên 60 tuổi. Phần lớn là không có triệu chứng, được phát hiện tình cờ khi nội soi hoặc thụt barit. Các biến chứng ở một phần ba này bao gồm xuất huyết đường dạ dày rụột dưới và viêm túi thừa.

Các túi thừa ruột kết thật sự là túi thừa giả do đặc điểm là sự thoát vị của niêm mạc và lớp dưới viêm mạc qua vách cơ của ruột kết. Chúng thường xẩy ra dọc theo các chỗ bám ở vị trí các mạch máu mạc treo thâm nhập ruột. Chúng có thể có kích thước khác nhau từ vài milimet tới vài centimet và số lượng từ một đến vài chục. Các bất thường mắc phải này cực kỳ thông thường ở các nước phương Tây, tăng lên về mức lưu hành từ 10% vào các tuổi 40 đến trên một phần ba ở tuổi trên 60. Ngược lại, bệnh túi thừa rất hiếm ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Phần lớn các bệnh nhân với bệnh túi thừa có tổn thương ở đại tràng sigma, song chỉ một phần ba có bệnh ruột kết ở phía gần.

Ở phần lớn các bệnh nhân, bệnh túi thừa được cho là phát sinh sau nhiều năm dùng chế độ ăn thiếu chất xơ. Các đoạn ruột kết không căng, co thắt, có áp lực trong lòng ruột cao hơn. Qua thời gian, lớp cơ co thắt của ruột kết hoạt động chống lại các sức ép lớn hơn để vận chuyển phân rấn và nhỏ sẽ bị phì đại, dầy lên, cứng và xơ. Các túi thừa thường hay phát triển hơn ở đại tràng sigma vì các áp lực trong lòng ruột là cao nhất ở vùng này. Mức độ các nhân tố di truyền và tính di động bất thường tham gia vào bệnh túi thừa còn chưa biết rõ. Các bệnh nhân với bệnh túi thừa lan tỏa có thể có sự yếu ớt cố hữu ở vách ruột kết. Các bệnh nhân với mô liên kết bất thường cũng có khuynh hướng phát triển bệnh túi thừa bao gồm hội chứng Ehlers - Danlos, hội chứng Marfan, và bệnh xơ cứng bì.

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Khởi đầu cấp tính của đại tiện ra máu đỏ tươi không có các tiền triệu.

Thường là một lượng lớn máu đỏ tươi tới đỏ nâu.

Không có các đặc điểm rõ rệt phân biệt với các nguyên nhân khác của xuất huyết đường dạ dày - ruột dưới.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Xuất huyết đường dạ dày - ruột dưới phát triển ở gần 5% các bệnh nhân bị bệnh túi thừa. Mặc dầu các túi thừa thường có nhiều hơn ở bên trái của ruột kết, nhưng xuất huyết hay lại bắt nguồn từ bên phải hơn. Xuất huyết bắt đầu một cách điển hình không báo trước ở các bệnh nhân không có triệu chứng nào khác. Các bệnh nhân cảm thấy bắt đầu đau thật bụng cấp tính, tiếp đó là đại tiện một lượng lớn máu đỏ tươi hoặc đỏ nâu lẫn với những cục máu. Nếu lượng ồ ạt, có thể xuất hiện các dấu hiệu giảm thể tích máu với các dấu hiệu sống theo tư thế hoặc sốc. Tuy nhiên thăm khám bụng vẫn bình thường, xuất huyết có thể kéo dài nhiều giờ, nhiều ngày trước khi ngừng tự phát trong phần lớn các trường hợp. Mất máu đường dạ dày - ruột mạn tính hoặc đi ngoài số lượng máu nhỏ tái phát qua trực tràng không bao giờ được quy cho bệnh túi thừa.

Việc đánh giá ban đầu, hồi sức, và xử lý bệnh nhân với xuất huyết đường dạ dày - ruột dưới được thảo luận ở bài khác (xem phần xuất huyết cấp tính đường dạ dày - ruột dưới). Nói ngắn gọn, phải đặt một ống thông mũi dạ dày để tìm bằng chứng về nguồn xuất huyết đường dạ dày - ruột trên, ở các bệnh nhân mà xuất huyết đã thuyên giảm, phải thực hiện nội soi ruột kết trong vòng 4 - 12 giờ sau khi tẩy ruột kết bằng một dung dịch rửa. Trong phần lớn các trường hợp trong đó xuất huyết đã ngừng, việc chẩn đoán xuất huyết túi thừa được xác lập một cách giả thiết sau khi xác định được các túi thừa ở nội soi ruột kết nhưng không có nguồn xuất huyết cấp tính rõ rệt nào khác. Hiếm khi thấy các túi thừa ruột kết được nhìn thấy đang chảy máu hoạt động tiếp diễn khi làm nội soi.

Các nghiên cứu hình ảnh

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện. Chụp nhấp nháy có thể định vị được vị trí xuất huyết ở bên phải hoặc bên trải ruột kết nhưng không xác định được nguyên nhân hoặc định vị chính xác vị trí xuất huyết. Chụp mạch thường là không giúp chẩn đoán vì xuất huyết đã ngừng hoặc là quá chậm. Nó có thể xác định vị trí xuất huyết ở gần một nửa số bệnh nhân với xuất huyết đang hoạt động.

Chẩn đoán phân biệt

Các nguyên nhân khác của xuất huyết cấp tính đường dạ dày - ruột dưới bao gồm giãn phình mạch (loạn sản mạch), viêm ruột kết thiếu máu cục bộ và đường rò động mạch chủ - ruột. Cho đến 10% các xuất huyết có vẻ là ở đường dạ dầy ruột dưới hóa ra lại bắt nguồn ở đường ruột trên.

Điều trị

Xuất huyết ngưng tự phát ở 90% các ca xuất huyết túi thừa không cần điều trị thêm. Đối với các bệnh nhân tiếp tục xuất huyết; các lựa chọn điều trị là phẫu thuật hoặc liệu pháp chụp mạch, giá trị của chúng một phần phụ thuộc vào sự kỹ năng: Nội sọi phần trên phải được thực hiện để loại trừ dứt khoát mất máu do nguồn dạ dày - ruột trên. Nơi nào có sẵn, thường chụp mạch được thực hiện trước tiên cho bệnh nhân ổn định. Trong khi chụp mạch, vasopressin tiêm vào động mạch có thể làm ngừng chảy máu túi thừa hoạt động cho 90% số lần. Phẫu thuật được chỉ định cho xuất huyết vẫn dai dẳng sau khi làm thủ thuật chụp mạch. Tuy nhiên, thật là cực kỳ hữu ích khi định vị chỗ xuất huyết bằng các nghiên cứu chụp nhấp nháy hoặc chụp mạch, vì nó cho phép cắt bỏ có hạn định hơn ruột kết tổn thương. Trong các tình huống mà các nỗ lực định vị chỗ xuất huyết bị thất bại và xuất huyết được thấy rõ ràng là phát sinh từ ruột kết, việc cắt bỏ toàn bộ ruột kết đường bụng sẽ được thực hiện.

Tiên lượng

Xấp xỉ 80% bệnh nhân xuất huyết túi thừa chỉ có một đợt. Tuy nhiên, các bệnh nhân có đợt thứ hai có xác suất cao trải qua những đợt xuất huyết thêm nữa. Nếu có thể định vị được điểm xuất huyết, việc cắt bỏ ngoại khoa không cấp cứu là cần thiết.

Bài viết cùng chuyên mục

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.