Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

2016-11-29 02:27 PM

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các polip là những tổn thương kết khối kín đáo lồi vào nòng ruột. Mặc dù hay thấy đơn phát hơn cả, chúng có thể được di truyền và là một bộ phận của hội chứng polip gia đình. Các polip có thể được chia thành 3 nhóm bệnh chính: Các polip niêm mạc tân sản (thuộc u tuyến), các polip niêm mạc không tân sản (tăng sản, các polip ở vị thành niên, các u loạn phát, các polip viêm) và các tổn thương dưới niêm mạc (các u mỡ, khối kết tập dạng lympho, u dạng ung thư, chứng trương khí dạng nang ở ruột). Các polip không tân sản niêm mạc không có tiềm năng ác tính và thường được phát hiện ngẫu nhiên khi làm nội soi hoặc thụt barit. Chỉ riêng các polip u tuyến có các nội dung lâm sàng đáng kể và sẽ được xem xét thêm. Trong số các polip được lấy đi khi nội soi, trên 70% là u tuyến; phần lớn các polip còn lại là tăng sản. Các polip tăng sản thường là nhỏ (< 5mm) và không gây hậu quả. Sự quan trọng duy nhất của chúng là chúng không thể được phân biệt một cách tin cậy với các tổn thương u tuyến trừ phi làm sinh thiết.

Các u tuyến phát sinh từ biểu mô ruột kết. Về mặt mô học chúng được phân loại thành hình ống, nhung mao và hình ống - nhung mao. Các u tuyến có thể có cuống (chứa một chân) hoặc không có cuống. Các u tuyến có mặt ở 30% số người lớn trên 50 tuổi. Ý nghĩa của chúng là phần lớn các ca ung thư tuyến ruột kết được cho là phát sinh từ u tuyến. Người ta đề xuất rằng có một trình tự u tuyến thành ung cho biểu mô, trong đó ung thư ruột kết trực tràng phát triển qua một quá trình liên tục từ niêm mạc bình thường sang u tuyến và ung thư biểu mô. Xấp xỉ 3% các u tuyến có chứa ung thư biểu mô xâm nhập. Tiềm năng ác tính tương quan với kích thước u tuyến, các đặc điểm nhung mao và mức độ loạn sản. Phần lớn u tuyến nhỏ dưới 1 cm và chỉ dưới 4% số đó sẽ to dần ra theo thời gian.

Các u tuyến nhỏ này chỉ có 1% khả năng chứa chấp ung thư và đưa ra ít nguy cơ. Khoảng 15 - 35% các u tuyến có kích thước 1 - 3cm. Các u tuyến lớn này có nguy cơ cao hơn nhiều chứa chấp ung thư (1 - 2cm: 10%; > 2cm : 46%) hoặc trở thành ung thư qua thời gian. Nguy cơ phát triển ung thư ở một u tuyến 1 cm được dự tính là 8% sau 10 năm. Người ta đã dự tính từ các nghiên cứu theo chiều dọc rằng phải trung bình mất 5 năm để một u tuyến cỡ trung bình phát triển từ niêm mạc có vẻ bình thường và 10 năm cho một ung thư rõ ràng phát sinh.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Thử nghiệm tìm máu kín đáo trong phân

Các test máu kín đáo trong phân thường được thực hiện như là một phần của chương trình kiểm tra ung thư ruột kết - trực tràng. Đáng tiếc là các test này chỉ phát hiện được dưới 40% các u tuyển lớn hơn lcm. Trong số các bệnh nhân có test dương tính, xấp xỉ một phần ba có u tuyến (chỉ cao hơn một chút so với tỷ lệ lưu hành bệnh bình thường ở dân số người lớn). Như vậy, các test là không nhậy và không đặc trưng cho các u tuyến.

Các test đặc biệt

Các polip được xác định bằng khám thụt barit, nội soi ống mềm đại tràng sigma, hoặc nội soi ruột kết. Thụt barit tương phản gấp đôi có thể phát hiện 90% các polip, đặc biệt những cái lớn hơn 1 cm. Các tổn thương được thụt barit xác định cần cắt bỏ bằng nội soi ruột kết hoặc sinh thiết. Nội soi ống mềm đại tràng sigma thường được thực hiện như là một bộ phận của chương trình kiệm tra ung thư ruột kết - đại tràng sigma. Xấp xỉ 1/3 đến 1/2 các u tuyến ruột kết là ở tầm tiếp cận được của nội soi ống mềm đại tràng sigma. Các polip được nhìn thấy ở 10 -20% bệnh nhân được kiểm tra nội soi đại tràng sigma và phải được sinh thiết. Các polip tăng sản không cần phải được đánh giá thêm. Các bệnh nhân có polip u tuyến ở nội soi đại tràng sigma phải qua nội soi ruột kết để loại bỏ các polip và tìm xem có những polip đồng thời ở ruột kết gần hay không (40 - 50% các bệnh nhân). Nội soi ruột kết là phương tiện tốt nhất để phát hiện các polip, xác định được 90% các polip nhỏ hơn 8mm và trên 98% các polip lớn hơn.

Điều trị

Vì trình tự u tuyến trở thành ung thư nên tất cả các bệnh nhân được phát hiện có, các polip ở nội soi đại tràng sigma hoặc thụt barit phải qua nội soi ruột kết kèm theo loại bỏ polip bằng các kỹ thuật đốt điện (cắt bỏ các polip), phần lớn các polip u tuyến có thể kiểm nghiệm được bằng loại bỏ nội soi ruột kết an toàn. Các tổn thương lớn không có cuống (> 2 - 3cm) có thể loại bỏ hoặc bằng cách từng phần hoặc có thể cần cắt bỏ ngoại khoa lần đầu. Một khi tất cả polip u tuyến đã được loại bỏ, nên nhắc lại "giám sát" nội soi ruột kết trong 3 năm để tìm các polip bỏ sót hoặc các u tuyến mới. Nếu nội soi ruột kết là âm tính sau 3 năm, sự giám sát tiếp theo có thể tăng thời gian lên 5 năm.

Các polip ác tính có thể được xem xét để điều trị đúng đắn nếu (1) polip được cắt bỏ hoàn toàn và đưa đi xét nghiệm giải phẫu bệnh học; (2) polip được biệt hóa tốt; (3) vùng rìa không bị tổn thương; hoặc (4) không có tổn thương mạch máu hoặc mạch bạch huyết. Vị trí cắt bỏ của các polip ác tính "thuận lợi" này phải được kiểm tra ba tháng một lần tìm các mô còn sót lại. Đối với các bệnh nhân có các polip ác tính với các đặc điểm không thuận lợi thì nên cắt bỏ ung thư bằng phẫu thuật, nếu bệnh nhân là người thích hợp tốt với phẫu thuật.

Tiên lượng

Các kết quả của nghiên cứu polip bao gồm trên 1400 bệnh nhân với các polip u tuyến được chữa bằng loại bỏ nội soi ruột kết chứng tỏ sự giảm sút về phát triển bình thường của ung thư tuyến ở gần 90% bệnh nhân trong một thời kỳ 13 năm. Hầu như chi có một ung thư đã thật sự tăng lên là các tổn thương Dukes A.

Bài viết cùng chuyên mục

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.