- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Buồn nôn và nôn
Buồn nôn và nôn
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Buôn nôn là một cảm giáp mơ hồ, rất khó chịu về sắp sửa nôn hoặc nôn nao, tiếp theo đó có thể là nôn hoặc không nôn. Nôn là việc đẩy ra mạnh mẽ các chất chứa trong dại dày ra ngoài qua cơ thắt thực quản trên giãn rộng và miệng mở, gây ra do các co bóp phối hợp của dại dày, bụng và lồng ngực. Nó thường theo sau buồn nôn và nôn khan, các cử động co thắt hô hấp và bụng từng cơn ("các gắng sức khô"). Phải phân biệt nôn với ợ thức ăn, đó là dòng trào ngược không cố gắng của dung lượng lỏng hoặc thức ăn từ dạ dày.
Động tác nôn được kiểm soát do một trung tâm ở hành tủy phối hợp các trung tâm hô hấp, vận mạch và phân phối thần kinh của đường dại dày - ruột. Trung tâm nôn có thể được kích thích do 4 nguồn khác nhau của đầu vào:
(1) Các sợi thần kinh phế vị đi vào (giầu các thụ thể serotonin 5-HT3) và các sợi thần kinh tạng từ các nội tạng đường dạ dày - ruột; các sợi này có thể được kích thích do sự căng giãn đường ruột hoặc dạ dày - ruột, sự kích ứng hoặc các nhiễm khuẩn niêm mạc hoặc màng bụng.
(2) Hệ tiền đình có thể bị kích thích do vận động hoặc các nhiễm khuẩn. Các sợi này có nồng độ cao các thụ thể histamin H1, và muscarin tiết cholin.
(3) Các trung tâm cao hơn của hệ thần kinh trung ương. Các rối loạn hệ thần kinh trung ương hoặc một số nhận thức thị giác, mùi, cảm xúc có thể gây nôn. Ví dụ, bệnh nhân nhận liệu pháp hóa học có thể bị nôn trước khi điều trị.
(4) Vùng khởi động thụ thể hóa học nằm ở bên ngoài hàng rào máu - não trong khu vực sau rễ của hành tủy. Vùng này có các thụ thể hóa học có thể được kích thích bằng các thuốc, các tác nhân hóa trị liệu, các độc tố, giảm oxy mô, tăng urê huyết, nhiễm toan và liệu pháp chiếu xạ. Vùng này có nhiều thụ thể serotonin 5-HT3 và dopamin D2.
Các biến chứng của nôn bao gồm mất nước, giảm kali huyết, nhiễm kiềm chuyển hóa, hít phải vào phổi, vỡ thực quản (hội chứng Boerhaave) và xuất huyết thứ phát do rách chỗ nối dại dày - thực quản (hội chứng Mallory - Weiss)
Các triệu chứng và dấu hiệu
Bệnh sử và thăm khám thực thể là quan trọng trong việc phân biệt các nguyên nhân gây nôn. Các triệu chứng không có đau bụng là điển hình do nguyên nhân ngộ độc thức ăn, viêm dạ dày - ruột nhiễm khuẩn và do thuốc, phải tìm hiểu những thay đổi mới đây trong thuốc men, thức ăn, các triệu chứng khác do virus gây khó chịu, hoặc tiêu chảy hoặc các chứng bệnh khác trong những người ở gia đình. Sự khởi đầu cấp tính của đau bụng nhiều và nôn gợi ý sự kích ứng của màng bụng, tắc ruột cấp tính, bệnh đường dẫn mật - tụy. Thăm khám có thể phát hiện sốt, tăng cảm giác đau tại chỗ, phản ứng tự vệ hoặc cảm giác đau này lại sau khi sờ. Nếu kéo dài hơn gợi ý thai nghén, tắc đường ra của dại dày, liệt nhẹ dạ dày, rối loạn di động ruột, rối loạn do tâm lý và các rối loạn hệ thần kinh trung ương hoặc toàn thân. Nôn ngay sau ăn gợi ý là do chứng cuồng ăn vô độ hoặc căn nguyên tâm thần. Nôn thức ăn không tiêu sau các bữa ăn 1 đến 4 - 5 giờ gợi ý là liệt nhẹ dạ dày hoặc tắc đường ra của dạ dày. Thăm khám lâm sàng ở các bệnh nhân này có thể phát hiện tiếng óc ách khi lay lắc bụng. Bệnh nhân dù có các triệu chứng cấp tính hay mạn tính đều được hỏi về các triệu chứng thần kinh như là đau đầu, cổ cứng, chóng mặt và dị cảm hoặc yếu mệt. Các thăm khám thần kinh và soi đáy dạ dày là cần thiết.
Các thăm khám đặc biệt
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to. Ở các bệnh nhân nghi bị tắc cơ học ở dạ dày hoặc ruột non, phải đặt một ống mũi dại dày để làm giảm các triệu chứng. Việc hút ra trên 200ml chất còn sót lại ở một bệnh nhân nhịn ăn làm nghĩ đến tắc hoặc liệt nhẹ dạ dày. Điều này được xác nhận bằng test tải nước muối cho thấy là hút ra được chất còn lại trong dạ dày hơn 400 ml sau khi đã truyền qua ống mũi - dại dày 750ml nước muối đẳng trương được 30 phút. Nguyên nhân tắc đường ra của dạ dày được xác minh tốt nhất bằng nội soi từ phần trên. Liệt dạ dày nhẹ được xác nhận bằng nghiên cứu ghi nhấp nháy hạt nhân, cho thấy việc vận chuyển hết dung lượng dạ dày bị trì hoãn còn nội soi từ trên hoặc loạt chụp có cản quang barit đường dạ dày - ruột trên đều không cho thấy chứng cớ về tắc cơ học ở đường ra của dạ dày. Các test chức năng gan bất thường hoặc tăng amylase làm nghĩ đến bệnh đường mật - tụy; bệnh này có thể điều tra bằng âm ký hoặc chụp cắt lớp vi tính vùng bụng. Các triệu chứng hệ thần kinh trung ương phải được điều tra bằng chụp cắt lớp vi tính hoặc hình ảnh cộng hưởng từ vùng não.
Bảng. Các nguyên nhân gây buồn nôn và nôn
(1) Kích thích đi vào nội tạng
Tắc cơ học dạ dày - ruột
Tắc đường ra của dạ dày: bệnh loét tiêu hóa, ung thư.
Tắc ruột non: Các dính ruột, thoát vị, xoắn ruột, bệnh Crohn, ung thư biểu mô.
Rối loạn di động da dầy - ruột
Liệt dạ dày nhẹ: đái tháo dường, dùng thuốc, sau nhiễm virus, sau mổ cắt dây phế vi.
Ruột non: bệnh xơ cứng bì, thoái hóa dạng tinh bột, giả tắc ruột mạn tính, bệnh cơ - thần kinh gia đình.
Kích ứng màng bụng
Viêm màng bụng: nội tạng bị thủng, viêm ruột thừa, viêm màng bụng do vi khuẩn tự phát.
Các nhiễm khuẩn
Viêm dạ dày - ruột do virus: tác nhân Norvvalk, rotavirus.
Ngộ dộc thực phẩm: các độc tố từ B cereus, S. aureus, C. Pertringens.
Viêm gan A hoặc B.
Các nhiễm khuẩn toàn thân cấp tính.
Các rối loạn gan - mật hoặc tụy.
Viêm tụy cấp tính.
Viêm túi mật hoặc sỏi ống mật chủ.
Các chất kích thích da dày ruột tại chỗ
Rượu, các thuốc chống viêm không steroid, các kháng sinh đường uống.
Các kích thích khác
Bệnh tim: nhồi máu cơ tim cấp tính, suy tim xung huyết.
Bệnh tiết niệu: sỏi, viêm bể thận.
(2) Các rối loạn hệ thần kinh trung ương
Các rối loạn tiền đình
Viêm mê đạo, hội chứng Ménière, chóng mặt khi vận động.
Tăng áp lực nội sọ
Các u ở hệ thần kinh trung ương, xuất huyết dưới màng cứng hoặc dưới màng nhện.
Các nhiễm khuẩn
Viêm màng não, viêm não.
Do căn nguyên tâm thần
Nôn mừa do dự đoán (một vấn đề khó chịu).
Cuồng ăn vô độ.
Các rối loạn tâm thần.
(3) Kích thích vùng khởi phát thụ thể hóa học
Hóa liệu pháp
Cisplatin, mechlorethamin, cyclophosphamid, doxorubincin.
Các thuốc
Digoxin, theophyllin, các thuốc dạng thuốc phiện.
Liệu pháp chiếu xạ.
Các rối loan toàn thân
Nhiễm xetôn acid trong đái tháo đường, cường năng tuyến giáp, tăng urê - máu cơn kịch phát vỏ thượng thận.
Điều trị
Các biện pháp chung
Điều trị nôn phải hướng chủ yếu vào việc tìm ra và chữa nguyên nhân căn bản. Phần lớn các nguyên nhân nôn cấp tính là nhẹ, có hạn định và không đòi hỏi điều trị đặc biệt. Các bệnh nhân phải ăn các chất lỏng loãng (nước xúp thịt, cá, rau, chè, các đồ uống có carbonat) và những lượng nhỏ thực phẩm khô (bánh quy có hợp chất natri). Đối với nôn cấp tính nặng hơn, thường cần cho bệnh nhân nằm viện. Do không thể ăn và mất các chất lỏng ở dạ dày, bệnh nhân có thể bị mất nước và mất các chất lỏng dạ dày, bệnh nhân có thể bị mất nước và giảm kali huyết, nhiễm kiềm chuyển hóa. Trong phần lớn các trường hợp, dung dịch muối 0,45% với 20 meq/L kali được truyền tĩnh mạch để giữ ổn định mức đủ nước của cơ thể. Một ống hút mũi - dạ dày để làm giảm sức ép ở dạ dày cải thiện làm dễ chịu cho bệnh nhân và cho phép theo dõi kiểm tra sự mất chất lỏng.
Các thuốc chống nôn
Có thể cho thuốc để dự phòng hoặc để chống nôn. Căn cứ vào tính phức tạp của các cách khác nhau kiểm soát và kích thích nôn, không có gì làm ngạc nhiên là không có một thuốc duy nhất nào có hiệu quả cho tất cả bệnh nhân. Việc kết hợp các thuốc từ nhiều loại khác nhau có thể làm mất các triệu chứng với độc tính ít hơn ở một số bệnh nhận. Tất cả các loại thuốc này đều phải tránh dùng trong thời kỳ có thai.
(1) Các thuốc độc kháng thụ thể serotorin 5-HT3 Ondansetron là loại hiện có duy nhất của họ thuốc mới nhất của các thuốc chống nôn. Khi được đưa vào dùng trước khi điều trị, nó có các hiệu quả dự phòng nôn do hóa liệu pháp gây ra.
(2) Các thuốc đối kháng dopamin. Các phenothiazin, butyrophenon và các benzamid thay thế có các đặc tính chống nôn nhờ vào ít nhất một phần các tác dụng chặn tiết dopamin cũng như an thần. Không may là liều cao của các tác nhân này liên quan với các tác dụng phụ kháng tiết dopamin, bao gồm cả phản ứng ngoại tháp và trầm câm. Các tác nhân này thường được dùng làm thuốc chống nôn trong nhiều tình huống.
(3) Các thuốc kháng hisiamin. Các thuốc này có các tính chất chống nôn yếu nhưng có ích lợi dự phòng nôn do chóng mặt khi vận động.
(4) Các thuốc an thần. Các benzodiazepin có thể giúp ích cho các bệnh nhân nôn do căn nguyên tâm thần hoặc do quen thói.
(5) Các corticosteroid. Các corticosteroid có thể được dụng kết hợp với các tác nhân khác trong điều trị nôn do hóa liệu pháp gây nên.
Bài viết cùng chuyên mục
Co thắt thực quản lan tỏa
Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.
Viêm túi thừa Meckel
Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.
Xuất huyết dạ dày tá tràng
Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.
Giãn tĩnh mạch thực quản
Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.
Bệnh Crohn
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.
Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn
Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất
Tắc đường ra của dạ dày
Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.
Đánh giá các rối loạn thực quản
Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.
Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát
Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.
Bệnh viêm ruột
Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.
Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein
Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột
Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng
Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ
Nấc
Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.
Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản
Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.
Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết
Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.
Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt
Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.
Hội chứng Zollinger Ellison
Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.
Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)
Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.
Giãn phình mạch đường ruột
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.
Sốt địa trung hải gia đình
Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.
Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác
Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng
Chảy máu túi thừa ruột kết
Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.
Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới
Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.
Tắc ruột non thực thể cấp tính
Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.
Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng
Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.