- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn tâm thần
- Rối loạn tâm thần tình dục
Rối loạn tâm thần tình dục
Đặc điểm chính của kích thích tình dục, là chúng thường có nguồn gốc tâm lý ban đầu, sự nghèo nàn về kinh nghiệm quan hệ tình dục khác giới sẽ càng củng cố đặc điểm này.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các giai đoạn của hoạt động tình dục bao gồm kích thích, hưng phấn, cực khoái và thoái trào. Gây kích thích chủ yếu là do yếu tố tâm lí. Phản ứng dẫn đến hưng phấn là hiện tượng cả tâm lý và sinh lý của sung huyết mạch phản ứng đối giao cảm dẫn đến cương cứng ở nam giới và sung huyết môi âm vật ở phụ nữ. Phản ứng cực khoái gồm xuất tinh ở nam giới, co cơ vân đáy chậu ở cả nam giới và nữ giới. Thoái trào là từ từ trở lại trạng thái sinh lý bình thường.
Khi các kích thích tình dục - phản ứng cương cứng (sung huyết) và cực khoái tạo ra phản ứng riêng lẻ ở những người đã quá thích nghi, chúng có thể được xem như là các giai đoạn riêng rể và có thể tạo ra những hội chứng khác nhau đáp lại những quy trình điều trị khác nhau.
Biểu hiện lâm sàng
Có ba nhóm rối loạn tình dục chính.
Loạn dâm Paraphilias (rối loạn kích thích tình dục)
Trong những tình trạng này (trước đây gọi là “lệch lạc”), những đối tượng tình dục hoặc những định hướng khác có liên quan đến kích thích tình dục khác giới gây ra giai đoạn kích thích của hoạt động tình dục. Những kích thích đó có thể là giày phụ nử, trẻ em, động vật, dụng cụ đánh đập hoặc những vụ xâm kích. Đặc điểm chính của kích thích tình dục là chúng thường có nguồn gốc tâm lý ban đầu. Sự nghèo nàn về kinh nghiệm quan hệ tình dục khác giới sẽ càng củng cố đặc điểm này theo thời gian.
Loạn dục phô trương:
Là hành vi bộc lộ trơ chẽn bộ phận sinh dục, nhằm đạt được kích thích tình dục, Đây là hành vi tình dục thời ấu thơ được chuyển lưu sang đời sống trưởng thành.
Loạn dục cải trang:
Là mặc quần áo và đóng vai trò người khác giới nhằm kích thích tình dục, thói quen “mặc quần áo khác giới” có thể là một phần của thủ dâm. Loạn dục cải trang trong đồng tính luyến ái hoặc trong loạn dục chuyển giới không gây ra kích thích tình dục nhưng có thể là sự thể hiện của lệch lạc tình dục đồng giới hoặc rối loạn giới.
Loạn dâm nhìn trộm:
Thể hiện ở việc nhìn trộm người khác giới cởi quần áo hoặc hành động tình dục để tạo kích thích tình dục. Trong cả hai trường hợp loạn dục phô trương và loạn dục nhìn trộm, kích thích tình dục thường dẫn đến thủ dâm. Đây được xem như là sự thay thế hoạt động tình dục.
Loạn dục trẻ em:
Sử dụng trẻ em khác giới nhằm đạt được kích thích tình dục và trong nhiều trường hợp hành vi chủ yếu là chiều chuộng, vuốt ve. Sự tiếp xúc thường theo đường miệng. Tuy vậy điều này tuỳ thuộc ở từng người. Nhìn chung loạn dục trẻ em bao gồm các loại tiếp xúc khác nhau. Ở cả hai giới đều có hành vi này. Nhưng do những yếu tố xã hội và văn hoá nên ở nam giới có tỉ lệ cao hơn. Loạn dục trẻ em thường có những khó khăn trong các mối quan hệ tình dục và nam giới thường là những người bị liệt dương.
Loạn luân:
Bao gồm quan hệ tình dục với người trong gia đình, hầu hết là với trẻ em. Rối loạn này có nhiều điểm giống với loạn dục trẻ em (loạn dục trẻ em trong gia đình). Những cảm giác loạn luân là thường gặp, tuy nhiên các tập tục văn hoá thường cũng đủ mạnh để ngăn cản sự thể hiện những cảm giác tình dục.
Loạn dục với súc vật:
Hành vi giao cấu với động vật nhằm đạt được sự mơn trớn tình dục. Giao cấu với động vật có thể được thực hiện bằng cách đưa bộ phận sinh dục người vào sâu bên trong hoặc cho động vật liếm. Hành vi này ở vùng nông thôn hoặc khu vực hẻo lánh có tỷ lệ cao hơn. Đây được xem như là sự thay thế tiếp xúc tình dục hơn là sự khoái cảm.
Loạn dục gây đau chủ động:
Thể hiện ở chỗ thích gây đau đớn cho đối tượng nhằm tạo ra kích thích tình dục, còn loạn dục gây đau thụ động là muốn có được kích thích tình dục bằng cách chịu đau đớn. Phần lớn các hoạt động tình dục đều có yếu tố hung bạo (ví dụ như cắn, xé). Tuy vậy sự chấp nhận tình dục cưỡng bức (ví dụ cưỡng dâm) cũng được xem như là hành động ban đầu của hung bạo.
Loạn dục bị hành hạ:
Là muốn có được khoái cảm tình dục bằng cách để người khác hành hạ, nô dịch, quăng quật. Điều này nguy hiểm đến tính mạng bởi có thể bị xiết cổ hoặc ngạt thở. Ước tính hàng năm có khoảng 1000 trường hợp tử vong ở nam giới do loạn dục hành hạ (ở nữ, tỉ lệ này thấp hơn nhiều).
Loạn dục xác chết:
Là giao cấu với xác chết hoặc sử dụng một phần xác chết cho mục đích kích thích tình dục. Thường kèm theo thủ dâm.
Lệch lạc xác định giới
Sự xác định giới về cơ bản, phản ánh sự tự nhận thức sinh học rằng “Mình là con trai” hoặc “Mình là con gái” những cái này đã hình thành ở vào giai đoạn 3 - 4 tuổi. Sự khó chịu về giới thể hiện hướng phát triển xác định giới độc lập với hướng sinh học.
Loạn dục chuyển giới (rối loạn xác định giới):
Là sự nỗ lực từ chối hoặc thay đổi giới sinh học bằng cách duy trì sự xác định giới độc lập. Loạn dục chuyển giới không phải là sự lựa chọn giữa hai giới mà thường là sự tiếp nhận giới khác với các thái độ, cảm giác, huyễn tương và thậm chí lựa chọn cả giọng điệu cho phù hợp. Tất cả những điều này đã có mầm mống từ đầu thời kì phát triển. Ví dụ, người đàn ông loạn dục chuyển giới trong hành vi, ngôn ngữ và tưởng tượng thời nhỏ cứ như là phụ nữ vậy. Họ không vượt ra ngoài những kiểu hành vi của phụ nữ, không làm những nghề coi như của đàn ông; họ chẳng thích thú gì với dương vật hoặc như là bằng chứng về nam tính hoặc là cơ quan cho hành vi sinh dục. Mong muốn thay đổi giới đã bắt đầu từ rất sớm và có thể tích luỹ, chi phối lối sống kiểu phụ nữ, tìm cách điều trị bằng hormon và phẫu thuật, ví d, cắt bỏ bộ phận sinh dục nam và tạo hình âm đạo.
Loạn dục đồng giới:
Không còn được coi là rối loạn tình dục nữa. Mặc dù vậy Kinsey cho rằng có tỉ lệ cao, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy khoảng 6% đàn ông và 3% phụ nữ có hành vi tình dục đồng giới ở tuổi trưởng thành. Vấn đề nảy sinh khi cá nhân có những khó khăn trong việc tiếp nhận hoặc định hướng giới hoặc do stress trong xã hội rằng không thể chấp nhận được.
Rối loạn chức năng tâm thần tình dục
Mục này bao gồm một nhóm lớn các rối loạn cương cứng và cực khoái. Ở đây thường bao gồm cả những vấn đề thích ứng giới, giáo dục và kĩ thuật. Những vấn đề này thường được các bác sĩ tuyến cơ sở tranh luận, chẩn đoán và điều trị.
Ở nam giới, có hai dạng rối loạn chính: bất lực và rối loạn xuất tinh.
Bất lực (rối loạn chức năng cương cứng). Là hiện tượng không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng để đáp ứng hoạt động giao hợp. Người bệnh thỉnh thoảng sử dụng những thuật ngữ để chỉ xuất tinh sớm. Cần phải hỏi bệnh kĩ bởi lẽ rối loạn cương cứng có thể do yếu tố tâm lý, sinh lý hoặc cả hai. Phần lớn những rối loạn này là do sinh lý bệnh và ở các mức độ khác nhau và có thể điều trị được. Sau khi vấn đề xuất hiện, trong tiền sử ít khi có cương cứng - đặc biệt cương dương vật ban đêm mà điều này cũng có thể dùng thiết bị đánh giá được hoặc trong nghiên cứu giấc ngủ ở Labô ngủ - thì đây là bằng chứng về căn nguyên tâm lý. Cũng phải thận trọng lưu ý rằng giảm cương cứng dương vật ban đêm có thể xuất hiện ở một số trường hợp bị trầm cảm. Bất lực tâm lý thường do mối quan hệ cá nhân nhân cách hoặc yếu tố nội tâm lý (ví dụ hôn nhân không hài hoà, trầm cảm), Các yếu tố thực thể (thường phát triển từ từ) bao gồm xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, tiểu đường, lạm dụng thuốc (rượu, nicotin, thuốc ngủ, thuốc kích thích) các dược phẩm, các thuốc chống tiết cholin, các thuốc hạ huyết áp, các thuốc kháng histamin, disulíiram, tất cả các thuốc hướng thần, thuốc ngủ, oestrogen; suy hệ thống cơ quan (tuần hoàn, tim , phổi, thận), biến chứng sau mổ (cắt tuyến tiền liệt, phẫu thuật mạch, lưng), chấn thương (tổn thương đĩa đệm và dây sống),các rối loạn nội tiết (tuyến yên, tuyến giáp, thượng thận, sinh dục), thiếu kẽm, các rối loạn thần kinh (xơ cứng đa ổ, u não, bệnh thần kinh ngoại vi, chấn thương, thiếu máu ác tính, giang mai), những vấn đề về tiết niệu (hẹp bao quy đầu), và những bất thường phát triển tâm thần tiên phát (hội chứng Klinefelter).
Rối loạn phóng tinh. Bao gồm xuất tinh sớm, không có khả năng xuất tinh, và xuất tinh ngược (có người thậm chí bị bất lực vẫn có thể xuất tinh). Xuất tinh thường có quan hệ chặt chẽ với cực khoái. Việc kiểm soát xuất tinh là một hành vi mắc phải tối thiểu ở tuổi thiếu niên với mức độ tối thiểu và tăng dần cùng với kinh nghiệm. Các yếu tố bệnh lý là những yếu tố can thiệp vào quá trình tập kiểm soát, hầu hết là kém hiểu biết tình dục, những yếu tố nội tâm thần (lo âu, tự buộc tội, trầm cảm) và kém thích ứng giữa các cá nhân (những vấn đề về hôn nhân, thiếu trách nhiệm của bạn tình, xung đột quyền lực) đều là những yếu tố thường gặp. Những nguyên nhân thực thể bao gồm sự can thiệp vào phân bố thần kinh giao cảm (thường do phẫu thuật hoặc chấn thương) và ảnh hưởng của các thuốc (ví dụ, SSRI hoặc ức chế giao cảm). Ở phụ nữ có hai dạng rối loạn chức năng tình dục, phổ biến nhất là co thắt âm đạo và lãnh cảm.
Co thắt âm đạo là một đáp ứng có điều kiện, trong đó xuất hiện còn co cơ vùng đáy chậu khi có bất kì kích thích vào khu vực này. Mong muốn là để tránh đưa dương vật vào. Cũng có thể có đáp ứng tình dục và cương cứng. Kích thích vào âm vật cũng có thể gây ra cực khoái.
Lãnh cảm là tình trạng phức tạp, trong đó nhìn chung là không có đáp ứng tình dục. Người phụ nữ có những khó khăn trong tiếp nhận cảm giác tình dục và không có đáp ứng cương cứng. Hoạt động tình dục thay đổi từ né tránh mạnh mẽ tình dục đến thi thoảng có những cơn cực khoái. Đôi khi cũng cần phải phân biệt giữa rối loạn chức năng cực khoái với lãnh cảm.
Trong rối loạn chức năng cực khoái, người phụ nữ vẫn có đáp ứng cương cứng nhưng với các mức độ khó khăn luôn thay đổi để đạt cực khoái. Nguyên nhân của rối loạn chức năng bao gồm kĩ thuật tình dục nghèo nàn, sớm có những chấn thương tình dục, mất hài hoà quan hệ giữa các cá nhân (xung đột vợ chồng, sử dụng tình dục như là phương tiện kiểm soát), và những vấn đề nội tâm thần (lo âu, sợ hãi, buộc tội). Những nguyên nhân thực thể bao gồm bất kỳ tình trạng nào gây ra đau đớn trong quan hệ tình dục, bệnh lý vùng chậu, hẹp cơ học, và thiếu hụt thần kinh.
Rối loạn ham muốn tình dục bao gồm giảm hoặc không có mong muốn tình dục với người khác giới và có thể là do nguyên nhân thực thể hoặc những khó khăn tâm lý (ví dụ lo âu, né tránh ám ảnh sợ). Bất kì một bệnh mạn tính nào cũng đều làm thu hẹp ham muốn. Những rối loạn hormon, bao gồm nhược năng tuyến sinh dục hoặc sử dụng các hợp chất kháng androgen như syproteron acetat, và những suy thận mạn tính cũng đều làm giảm hoạt động tình dục. Rượu, thuốc an thần, thuốc ngủ, cần sa và một số loại thuốc khác cũng có thể ảnh hưởng đến động cơ và hoạt động tình dục.
Điều trị
Loạn dâm và những rối loạn xác định giới tính
Tâm lý:
Rối loạn kích thích tình dục bao gồm lệch lạc hoạt động tình dục (loạn dâm), đặc biệt là những hoạt động mang tính chất bề ngoài (ví dụ loạn dục nhìn trộm) và những rối loạn mới xuất hiện đều có thể được chỉ định liệu pháp tâm lý. Tiên lượng tốt hơn nếu như động cơ xuất phát từ phía cá nhân chứ không phải từ hệ thống xã hội. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng sự can thiệp của luật pháp nhiều khi là động cơ chính để điều trị bởi vì tình trạng bệnh dai dẳng và được củng cố cho đến khi xảy ra những va chạm với pháp luật. Các liệu pháp thường tập trung vào những cản trở với đáp ứng kích thích tình dục bình thường và sự kì vọng chủ yếu vẫn là hành vi lệch lạc sẽ giảm còn hành vi bình thường sẽ tăng.
Hành vi:
Trong các rối loạn vai trò giới tính người ta thường sử dụng kĩ thuật tạo tác và phản hồi song nhìn chung ít kết quả. Trong một số trường hợp các kĩ thuật đóng vai, mô hình hành vi cũng cải thiện những rối loạn kích thích tình dục. Ấn tượng cảm xúc đôi khi có tác dụng làm giảm lo âu trong những vấn đề loạn dục đồ vật.
Xã hội:
Mặc dù không làm thay đổi kiểu kích thích tình dục hoặc vai trò giới tính, các nhóm tự giúp đỡ cũng có tác dụng hỗ trợ quá trình thích ứng với xã hội vốn chưa có thiện cảm. Một điều cũng rất quan trọng khác là cần chú ý đến gia đình. Điều này sẽ giúp cho các cá nhân chấp nhận tình trạng của họ và làm giảm nhẹ tình trạng tự buộc tội.
Thuốc:
Medroxyprogesteron acetat là một chất ngăn chặn động cơ tình dục, thường được dùng để dập tắt những hành vi tình dục rối loạn ở nam giới ở mọi lứa tuổi. Thuốc bắt đầu có tác dụng trong vòng ba tuần và nói chung thuốc có tác dụng hai chiều. Fluoxetin hoặc các SSRI khác có thể hạn chế một số hành vi tình dục xung động, trong đó có cả loạn dâm. Mặc dù một số trường hợp loạn dục chuyển giới có được điều trị bằng phẫu thuật tái tạo bộ phận sinh dục, song nhiều trường hợp bị loại bởi những thời kì sống thử là phụ nữ trước khi phẫu thuật.
Rối loạn chức năng tâm thần tình dục
Thuốc:
Điều quan trọng nhất là phải xác định nguyên nhân có thể điều chỉnh được, thậm chí nếu như tình trạng không thể điều chỉnh được thì việc xác định nguyên nhân đặc hiệu cũng giúp cho người bệnh chấp nhận tình trạng. Cũng cần phải tránh sự mất hài hoà trong đời sống vợ chồng. Trong tất cả những rối loạn chức năng tình dục, bất lực là tình trạng có khả năng có cơ sở thực thể. Do có tác dụng chung là trì hoãn phóng tinh nên các thuốc SSRI có hiệu quả đối với những trường hợp phóng tinh sớm.
Hành vi:
Sử dụng những kĩ thuật điều kiện đối với các hội chứng do đáp ứng có điều kiện cho những kết quả rất tốt. Có thể sử dụng giải cảm ứng kết hợp với nong Hegar từ từ và kĩ thuật thư giãn để điều trị co thắt âm đạo. Masters và Johnson đã sử dụng cách tiếp cận hành vi trong tất cả những rối loạn chức năng tình dục cùng với liệu pháp tâm lý hỗ trợ và cải thiện mối quan hệ vợ chồng.
Tâm lý:
Sử dụng liệu pháp tâm lý là sự lựa chọn tốt nhất đối với những trường hợp có khó khăn trong quan hệ cá nhân hoặc những vấn đề nội tâm thần.
Lo âu và buộc tội cha mẹ trong vấn đề giới tính cũng góp phần vào rối loạn chức năng tình dục. Tuy nhiên ngay cả trong những trường hợp như vậy, tiếp cận kết hợp tâm lý - hành vi thường cho kết quả rất nhanh.
Xã hội:
Sự gần gũi của những người khác (ví dụ, mẹ vợ) trong công việc gia đình thường là một yếu tố ức chế trong quan hệ tình dục. Trong những trường hợp như vậy, một số hoạt động xã hội có thể giúp làm nhẹ vấn đề.
Bài viết cùng chuyên mục
Mê sảng, sa sút trí tuệ và các rối loạn nhận thức
Các rối loạn hành vi có xu hướng thường gặp ở những trường hợp dai dẳng, thường liên quan trực tiếp đến rối loạn nhân cách hoặc khả năng dễ bị tổn thương của hệ thần kinh trung ương
Các phương pháp điều trị rối loạn tâm thần
Trong hầu hết các trường hợp, điều trị tâm thần bao gồm cả sự tham gia tích cực của những người có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người bệnh.
Các rối loạn tâm thần ở người cao tuổi
Hội chứng tâm thần phổ biến nhất ở người già là sa sút trí tuệ (hội chứng não thực thể) với các mức độ khác nhau.
Rối loạn khí sắc
Trầm cảm có thể xuất hiện với góc độ là một phản ứng đáp lại tác động gây stress nào đó hoặc một tình huống cuộc sống nặng nề, thường là sự mất mát của bản thân.
Chẩn đoán các rối loạn do dùng thuốc
Những người có rối loạn stress sau sang chấn thường tự điều trị bằng nhiều loại thuốc khác nhau. Người sử dụng nhiều loại ma tuý khác nhau, kéo dài thường có hình ảnh teo não trên CT scan.
Đánh giá tâm thần trong rối loạn tâm thần
Phỏng vấn gia đình về ứng xử của người bệnh với những người khác cũng có thể cung cấp thông tin quan trọng cho chẩn đoán, thậm chí có thể làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.
Tâm thần phân liệt và các rối loạn loạn thần khác
Các rối loạn tâm thần phân liệt là nhóm các hội chứng rối loạn tư duy, khí sắc và toàn bộ hành vi cũng như là kém chọn lọc kích thích.
Tiếp cận bệnh nhân rối loạn tâm thần
Các yếu tố môi trường và xã hội luôn được coi là những yếu tố quan trọng sống còn trong sự cân bằng tâm thần ở mỗi cá nhân. Không có sự va chạm với môi trường thì cũng không cố bệnh được xã hội thừa nhận.
Mất ngủ
Người bệnh có thể phàn nàn về việc khó vào giấc ngủ hoặc khó khăn trong việc duy trì giấc ngủ, có những khoảng thức giấc trong đêm hoặc thức dậy sớm hoặc kết hợp những hiện tượng đó.
Loạn ngủ
Cơn khiếp sợ khi ngủ là những kích thích đột ngột, kinh hoàng trong khi ngủ, thường gặp ở những cậu bé và cũng có thể ở người lớn. Nó hoàn toàn khác với cơn hoảng loạn khi ngủ.
Rối loạn nhân cách
Rối loạn nhân cách được xem như là bảng ma trận của một số vấn đề tâm thần nặng nề. Ví dụ, dạng phân liệt, có liên quan đến phân liệt; dạng né tránh, có liên quan đến một số rối loạn lo âu.
Phụ thuộc Caffein
Một điểm chung khác giữa caffein và các chất kích thích khác là chúng lại làm nặng thêm các triệu chứng của tâm thần phân liệt bù trừ và bệnh nhân hưng trầm cảm.
Phụ thuộc các chất gây ảo giác (nghiện ma túy)
Điều trị pha cấp tính chủ yếu là giúp người bệnh tránh được những hành vi thất thường có thể dẫn đến chấn thương hoặc tử vong.
Ngủ nhiều
Điều trị ngừng thở khi ngủ có thể gồm các biện pháp như giảm cân và điều hoà không khí qua mũi họng dưới áp lực liên tục trong thời gian ngủ.
Phụ thuộc các chất kích thích amphetamin và cocain
Có một số người nghiện thuốc kích thích trở nên nhạy cảm với việc sử dụng các chất kích thích sau đó. Ở những người này, chỉ cần một lượng nhỏ chất kích thích nhẹ.
Stress và rối loạn thích ứng
Từng cá nhân có thể phản ứng lại với stress bằng trạng thái lo âu hoặc trầm cảm, phát hiện các triệu chứrig thực thể, chạy trốn hoặc uống rượu, bắt đầu các vụ áp phe hay một loạt các cách khác.
Các rối loạn dạng cơ thể
Dễ bị thương tổn ở một hoặc vài hệ thống cơ quan và tiếp xúc với những thành viên trong gia đình có các vấn đề dạng cơ thể sẽ đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển các triệu chứng.
Phụ thuộc thuốc Phencyclidin
Các triệu chứng thực thể gồm chóng mặt, thất điều, rối loạn ngôn ngữ, rung giật nhãn cầu, co rút mí mắt trên với nhìn chằm chằm vào chỗ trống.
Phụ thuộc và lạm dụng rượu (nghiện rượu)
Nghiện rượu là một hội chứng có hai pha: vấn đề ăn uống và phụ thuộc rượu. Vấn đề uống là việc sử dụng rượu lặp đi lặp lại, thường nhằm làm dịu lo âu.
Phụ thuộc cần sa
Nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng lâu dài của thuốc cho thấy những bất thường trong cành cây phổi. Viêm họng, viêm mũi liên quan tới việc sử dụng cần sa kéo dài cùng với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Các rối loạn lo âu và rối loạn phân ly
Rối loạn hoảng loạn được đặc trưng bằng những cơn lo âu trầm trọng ngắn, hồi phục tái phát, khó dự đoán, kèm theo những biến đổi sinh lý. Cũng có thể ám ảnh sợ khoảng trống.
Phụ thuộc thuốc gây nghiện (opioid ma túy)
Để điều trị những trường hợp quá liều hoặc nghi quá liều có thể dùng naloxon 2 mg tiêm tĩnh mạch, nếu quá liều thì kết quả sẽ thể hiện rõ rệt trồng vòng 2 phút.
Phụ thuộc các chất hỗn hợp và dung môi
Các kháng histamin trong một chừng mực nào đó gây sự ức chế hệ thần kinh trung ương do vậy nhiều khi nó được dùng như là một loại an dịu OTC. Trạng thái uể oải cũng thường thấy.
Các rối loạn tấn công: rối loạn tâm thần
Nhận biết được vấn đề này một phần là do sự nâng cao ý thức về quyền của phụ nữ và một phần là những người phụ nữ cũng hiểu rằng họ không được phép chấp nhận bị lạm dụng.
Các rối loạn đau dai dẳng
Thông thường những biến đổi giải phẫu là không hồi phục bởi lẽ nó phải chịu nhiều can thiệp với những hậu quả không mong muốn ngày càng gia tăng.