Phụ thuộc các chất kích thích amphetamin và cocain

2016-01-20 05:20 PM

Có một số người nghiện thuốc kích thích trở nên nhạy cảm với việc sử dụng các chất kích thích sau đó. Ở những người này, chỉ cần một lượng nhỏ chất kích thích nhẹ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Lạm dụng chất kích thích hoặc dùng đơn độc hoặc kết hợp các thuốc khác rất thường thấy. Các amphetamin, trong đó có cả methedrin (“Tôc độ”) là một trong các dạng thức để hút, được gọi là “băng”, tạo ra sự vui vẻ cao độ, kéo dài hơn so với methylphenidat và phenmetrazin, là những thuốc được kiểm soát chặt chẽ khi kê đơn nhưng lại khá dễ kiếm ở chợ đen. Sử dụng mức độ bất kỳ một loại thuốc kích thích nào cũng đều làm tăng hoạt động, cảm giác dồi dào sức mạnh về tâm lý và thể lực và các tác dụng giống giao cảm. Bệnh cảnh lâm sàng của ngộ độc cấp thuốc kích thích bao gồm: vã mồ hôi, tăng nhịp tim, tăng huyết áp, giãn đồng tử, tăng hoạt động và hội chứng não cấp tính có lú lẫn và rối loạn định hướng. Khả năng dung nạp tăng rất nhanh và khi liều tăng lên xuất hiện các triệu chứng như tăng mất ngủ, ý tưởng paranoid (kèm theo hoang tưởng bị bệnh kí sinh trùng, lắp lời, lắp lại động tác, nghiến răng lúc ngủ, ảo xúc giác về nhiễm côn trùng và loạn thần rầm rộ; thường có ý tưởng bị truy hại do vậy có phản ứng tấn công. Cai thuốc kích thích có đặc điểm là trầm cảm kèm theo các triệu chứng của ngủ nhiều và ăn nhiều.

Có một số người nghiện thuốc kích thích trở nên nhạy cảm với việc sử dụng các chất kích thích sau đó. Ở những người này, chỉ cần một lượng nhỏ chất kích thích nhẹ, ví dụ như caffein cũng có thể gây các ra triệu chứng paranoid và ảo thanh.

Cocain là một chất kích thích. Nó được sản xuất từ cây coca, các dẫn xuất chứa trong hạt, là và bột dẻo coca, cocain hydrochlorid. Bột dẻo coca là chiết xuất thô chứa 40 - 80 % cocain sulfat và các tạp chất khác. Cocain hydrochlorid là một muối và là dạng được sử dụng nhiều nhất. Dẫn xuất tinh chất (và rất mạnh), gốc tự do còn gọi là “crack” (bạch phiến) được điều chế rất đơn giản từ cocain hydrochlorid.

Có rất nhiều cách sử dụng: nhai lá, hơ nóng lá và nhai với chất kiềm (ví dụ, với tro của lá khác) nhằm tăng hấp thụ ở miệng. Nó đạt đến trạng thái say nhẹ sau khoảng 5 - 10 phút và kéo dài chừng một giờ. Cocain có thể được hít vào mũi qua một ống nhỏ. Việc hấp thụ có thể bị chậm lại do co mạch (điều này cuối cùng có thể dẫn đến hoại tử tổ chức và thủng vách ngăn); khởi phát tác dụng sau 2 - 3 phút, kèm theo say mức độ vừa (khoái cảm, kích thích, cảm thấy dồi dào sức lực) kéo dài khoảng 30 phút. Cocain nguyên chất đóng vai trò chủ chốt trong trạng thái say. Tiêm tĩnh mach cocain hydrochlorid hoặc cocain gốc tự do sẽ có hiệu quả sau 30 giây và trạng thái say tương đối mạnh, kéo dài khoảng 15 phút. Sử dụng kết hợp cocain với ethanol sẽ thúc đẩy gan tạo ra cocaethylen. Chất này lại tạo ra những tác động giống cocain nhưng mạnh hơn và kéo dài hơn. Hút cocain gốc tự do (cocain chuyển sang dạng hơi có điềm sôi thấp) có tác dụng sau vài giây và tạo ra trạng thái say mạnh, kéo dài vài phút. Cường độ của phản ứng có liên quan chặt chẽ với khả năng hoà tan trong lipid của dạng gốc tự do và gây ra những triệu chứng tâm thần cũng như nội khoa nặng.

Cũng đã có thông báo về trụy tim mạch, loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim và các cơn thiếu máu tạm thời. Cũng có thể có cơn co giật, đột quỵ, các triệu chứng migraine, tăng thân nhiệt tổn thương phổi và một số biến chứng sản khoa như sảy thai, rau bong non, quái thai, thai chậm phát triển và đẻ non. Cocain có thể gây ra lo âu, thay đổi cảm xúc và sảng, Nếu dùng lâu thì cũng có những vấn đề giống như các chất kích thích khác.

Bác sĩ cần phải tỉnh táo đối với việc dùng cocain cho bệnh nhân có các triệu chứng không giải thích được như: chảy nước mũi, đau đầu, mệt mỏi, mất ngủ, lo ầu, trầm cảm và khản giọng dai dẳng. Cai đột ngột không nguy hiểm đến tính mạng nhưng thường gây ra thèm, rối loạn giấc ngủ, ăn nhiều, mệt mỏi và trầm cảm nặng (đôi khi kèm theo ý định tự sát) kéo dài vài ngày đến vài tuần.

Điều trị thường là không chuẩn xác và khó. Do trạng thái say ngắn với việc phong toả tái hấp thu dopamin nên có thể uống chất chủ vận dopamin là bromocriptin, liều 1,5 mg chia làm ba lần và có thể cải thiện được một số triệu chứng của thèm thuốc liên quan đến trạng thái cai cocain cấp tính. Các chất chủ vận dopamin khác như apomorphin, levodopa và amantadin cũng đang được nghiên cứu nhằm mục đích này. Cũng đã có bằng chứng ban đầu cho thấy carbamazepin với liều thông thường có thể làm giảm thèm thuốc ở trạng thái cai và desipramin liều trung bình có tác dụng duy trì khả năng nhịn thuốc ở những giai đoạn đầu trong điều trị. Điều trị loạn thần cũng được thực hiện như đối với bất kì một trạng thái loạn thần khác: các thuốc chống loạn thần, liều phù hợp sẽ cải thiện các triệu chứng. Bât kì một triệu chứng nội khoa nào (ví dụ tăng thân nhiệt, cơn co giật, tăng huyết ẩp) cũng đều phải được điều trị chuyên biệt. Các phương thức điều trị cần phải được thực hiện trên cơ sở kết hợp với chương trình có tổ chức tốt, thường là dựa trên mô hình AA (Hội những người không uống rượu - ND). Chỉ cần điều trị nội trú khi có biểu hiện tự gây thương tích, gây lộn xộn hoặc đe doạ người khác (thường là hoang tưởng paranoid).

Bài viết cùng chuyên mục

Rối loạn nhân cách

Rối loạn nhân cách được xem như là bảng ma trận của một số vấn đề tâm thần nặng nề. Ví dụ, dạng phân liệt, có liên quan đến phân liệt; dạng né tránh, có liên quan đến một số rối loạn lo âu.

Tiếp cận bệnh nhân rối loạn tâm thần

Các yếu tố môi trường và xã hội luôn được coi là những yếu tố quan trọng sống còn trong sự cân bằng tâm thần ở mỗi cá nhân. Không có sự va chạm với môi trường thì cũng không cố bệnh được xã hội thừa nhận.

Đánh giá tâm thần trong rối loạn tâm thần

Phỏng vấn gia đình về ứng xử của người bệnh với những người khác cũng có thể cung cấp thông tin quan trọng cho chẩn đoán, thậm chí có thể làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.

Các rối loạn tấn công: rối loạn tâm thần

Nhận biết được vấn đề này một phần là do sự nâng cao ý thức về quyền của phụ nữ và một phần là những người phụ nữ cũng hiểu rằng họ không được phép chấp nhận bị lạm dụng.

Các rối loạn dạng cơ thể

Dễ bị thương tổn ở một hoặc vài hệ thống cơ quan và tiếp xúc với những thành viên trong gia đình có các vấn đề dạng cơ thể sẽ đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển các triệu chứng.

Tâm thần phân liệt và các rối loạn loạn thần khác

Các rối loạn tâm thần phân liệt là nhóm các hội chứng rối loạn tư duy, khí sắc và toàn bộ hành vi cũng như là kém chọn lọc kích thích.

Các rối loạn đau dai dẳng

Thông thường những biến đổi giải phẫu là không hồi phục bởi lẽ nó phải chịu nhiều can thiệp với những hậu quả không mong muốn ngày càng gia tăng.

Những vấn đề tâm thần liên quan đến nằm viện và các rối loạn do dùng thuốc, phẫu thuật

Trong những trường hợp cực đoan, những vấn đề này có thể thúc đẩy bệnh nhân trốn viện, làm ngược lại chỉ dẫn về y tế.

Các phương pháp điều trị rối loạn tâm thần

Trong hầu hết các trường hợp, điều trị tâm thần bao gồm cả sự tham gia tích cực của những người có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người bệnh.

Phụ thuộc các chất gây ảo giác (nghiện ma túy)

Điều trị pha cấp tính chủ yếu là giúp người bệnh tránh được những hành vi thất thường có thể dẫn đến chấn thương hoặc tử vong.

Phụ thuộc thuốc gây nghiện (opioid ma túy)

Để điều trị những trường hợp quá liều hoặc nghi quá liều có thể dùng naloxon 2 mg tiêm tĩnh mạch, nếu quá liều thì kết quả sẽ thể hiện rõ rệt trồng vòng 2 phút.

Phụ thuộc Caffein

Một điểm chung khác giữa caffein và các chất kích thích khác là chúng lại làm nặng thêm các triệu chứng của tâm thần phân liệt bù trừ và bệnh nhân hưng trầm cảm.

Mất ngủ

Người bệnh có thể phàn nàn về việc khó vào giấc ngủ hoặc khó khăn trong việc duy trì giấc ngủ, có những khoảng thức giấc trong đêm hoặc thức dậy sớm hoặc kết hợp những hiện tượng đó.

Các rối loạn tâm thần ở người cao tuổi

Hội chứng tâm thần phổ biến nhất ở người già là sa sút trí tuệ (hội chứng não thực thể) với các mức độ khác nhau.

Các rối loạn lo âu và rối loạn phân ly

Rối loạn hoảng loạn được đặc trưng bằng những cơn lo âu trầm trọng ngắn, hồi phục tái phát, khó dự đoán, kèm theo những biến đổi sinh lý. Cũng có thể ám ảnh sợ khoảng trống.

Ngủ nhiều

Điều trị ngừng thở khi ngủ có thể gồm các biện pháp như giảm cân và điều hoà không khí qua mũi họng dưới áp lực liên tục trong thời gian ngủ.

Phụ thuộc và lạm dụng rượu (nghiện rượu)

Nghiện rượu là một hội chứng có hai pha: vấn đề ăn uống và phụ thuộc rượu. Vấn đề uống là việc sử dụng rượu lặp đi lặp lại, thường nhằm làm dịu lo âu.

Loạn ngủ

Cơn khiếp sợ khi ngủ là những kích thích đột ngột, kinh hoàng trong khi ngủ, thường gặp ở những cậu bé và cũng có thể ở người lớn. Nó hoàn toàn khác với cơn hoảng loạn khi ngủ.

Chẩn đoán các rối loạn do dùng thuốc

Những người có rối loạn stress sau sang chấn thường tự điều trị bằng nhiều loại thuốc khác nhau. Người sử dụng nhiều loại ma tuý khác nhau, kéo dài thường có hình ảnh teo não trên CT scan.

Phụ thuộc cần sa

Nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng lâu dài của thuốc cho thấy những bất thường trong cành cây phổi. Viêm họng, viêm mũi liên quan tới việc sử dụng cần sa kéo dài cùng với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

Rối loạn khí sắc

Trầm cảm có thể xuất hiện với góc độ là một phản ứng đáp lại tác động gây stress nào đó hoặc một tình huống cuộc sống nặng nề, thường là sự mất mát của bản thân.

Stress và rối loạn thích ứng

Từng cá nhân có thể phản ứng lại với stress bằng trạng thái lo âu hoặc trầm cảm, phát hiện các triệu chứrig thực thể, chạy trốn hoặc uống rượu, bắt đầu các vụ áp phe hay một loạt các cách khác.

Phụ thuộc các chất hỗn hợp và dung môi

Các kháng histamin trong một chừng mực nào đó gây sự ức chế hệ thần kinh trung ương do vậy nhiều khi nó được dùng như là một loại an dịu OTC. Trạng thái uể oải cũng thường thấy.

Phụ thuộc thuốc Phencyclidin

Các triệu chứng thực thể gồm chóng mặt, thất điều, rối loạn ngôn ngữ, rung giật nhãn cầu, co rút mí mắt trên với nhìn chằm chằm vào chỗ trống.

Rối loạn tâm thần tình dục

Đặc điểm chính của kích thích tình dục, là chúng thường có nguồn gốc tâm lý ban đầu, sự nghèo nàn về kinh nghiệm quan hệ tình dục khác giới sẽ càng củng cố đặc điểm này.