- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị sản khoa
- Nôn trong thai nghén
Nôn trong thai nghén
Nôn nặng, dai dẳng trong khi có thai gọi là chứng nôn nghén nặng, có thể làm cho kiệt quệ cần phải nằm viện. Sự mất nước, nhiễm toan, suy dinh dưỡng có thể phát triển cùng với sự nôn mửa kéo dài.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhận định chung
Buồn nôn hay nôn vào buổi sáng hay tối thường bắt đầu sớm, sau khi mất kỳ kinh đầu tiên và hết sau khi thai được 4 - 5 tháng. Ít nhất một nửa số phụ nữ, hầu hết trong số họ là con so than phiền buồn nôn, nôn trong giai đoạn đầu của thai nghén. Vấn đề này không gây ra ảnh hưởng xấu đến thai nghén và nó cũng không báo trước những biến chứng khác, mặc dù nó đặc biệt hay gặp trong chửa đa thai và chửa trứng. Người ta tin rằng nguyên nhân nôn trong khi có thai là do nồng độ estrogen cao.
Nôn nặng, dai dẳng trong khi có thai gọi là chứng nôn nghén nặng, có thể làm cho kiệt quệ cần phải nằm viện. Sự mất nước, nhiễm toan, suy dinh dưỡng có thể phát triển cùng với sự nôn mửa kéo dài. Rối loạn chức năng tuyến giáp có thể đi kèm với nghén nặng, vì vậy người ta khuyên nên định lượng TSH và T4 tự do ở những bệnh nhân này.
Điều trị
Buôn nôn và nôn trong lúc có thai
Việc làm yên tâm và lời khuyên về chế độ ăn uống là tất cả những vấn đề được đặt ra trong hầu hết các trường hợp. Bởi vì khả năng sinh quái thai, mà các thuốc được sử dụng trong nửa đầu của thời kỳ thai nghén phải rất nghiêm ngặt, đó là điều rất quan trọng đối với cuộc sống và sức khoẻ. Những chất chống nôn, kháng histamin, chống co thắt nhìn chung là không cần thiết để điều trị buồn nôn do thại nghén. Vitamin B6 (pyridoxịn) 50 - 100mg/ngày đường uống là không độc và có thể có ích cho một số bệnh nhân.
Nôn nghén nặng
Cho bệnh nhân nằm viện, nghi ngơi tại giường trong phòng riêng. Không cho ăn uống bằng đường miệng trong 48 tiếng và duy trì thăng bằng hước, điện giải bằng cách bồi phụ dịch và các chất vitamin ngoài đường tiêu hóa thích hợp theo chỉ định ít khi việc nuôi dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hóa trở nên cần thiết. Càng sớm càng tốt cho bệnh nhân ăn khô bao gồm 6 bữa ăn nhỏ hàng ngày với dịch lỏng sạch 1 giờ sau khi ăn. Những viên thuốc đạn trực tràng procholorperazin có thể có ích. Sau khi ổn định, bệnh nhân có thể được điều trị duy trì tại nhà thậm chí truyền dịch nếu bệnh nhân yêu cầu để bổ sung cho đường miệng.
Bài viết cùng chuyên mục
Tiền sản giật và sản giật
Không có cách can thiệp nào tỏ ra là có giá trị để làm giảm tần suất xẩy ra hay tính nghiêm trọng của quá trình qua nghiên cứu một cách khách quan bao gồm lọt tiểu
Dinh dưỡng trong khi có thai
Những chất rỗng calo nên tránh, và chế độ ăn nên chứa những thức ăn sau: thực phẩm protein nguồn gốc động vật và thực vật, sữa và các sản phẩm của sữa
Sẩy thai tự nhiên
Hiện nay không có chứng cớ rằng đầu máy video hoặc lĩnh vực điện tử phối hợp liên quan đến vấn đề tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên
Sẩy thai liên tiếp
Sẩy thai liên tiếp là chấn đoán lâm sàng đúng hơn là chẩn đoán bệnh lý. Những dấu hiệu lâm sàng cũng tương tự như những điều được quan sát thấy ở các loại sẩy thai khác.
Tình trạng bệnh nội khoa gây biến chứng thai nghén
Thai nghén đi kèm với sự tăng đề kháng của các mô đối với insulin, dẫn đến tăng insulin trong máu cũng như tăng glucose và triglycerid, những biến đổi này là do lactogen rau thai
U nguyên bào nuôi do thai
Chửa trứng bán phần có xu hướng theo sau là giai đoạn lành tính, trong khi chửa trứng toàn phần có khuynh hướng đa số trở thành ung thư nguyên bào nuôi.
Chửa ngoài tử cung
Thử nghiệm thai nghén định lượng trong huyết thanh nói chung cho thấy có mức độ thấp hơn so với thai nghén bình thường cùng tuổi thai
Viêm vú hậu sản
Viêm vú thường bắt đầu trong vòng ba tháng sau đẻ và có thể bắt đâu với một vết thương hay nứt núm vú. Có sự viêm mô tế bào rõ ràng ở vùng tổ chức vú, với biểu hiện đỏ, sưng, nóng tại chỗ và sốt.
Du lịch và tiêm chủng trong khi có thai
Gama globulin lưu trữ để ngăn ngừa viêm gan A là an toàn và không mang lại nguy cơ lây truyền HIV. Chloroquin có thể được sử dụng đề phòng bệnh sốt rét trong khi mang thai, và proguanil cũng an toàn.
Chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt thai nghén
Những biểu hiện thai và triệu chứng sau thường do thai nghén gây ra, nhưng không có dấu hiệu nào dùng để chẩn đoán được, Việc ghi nhận thời gian
Những biến chứng ngoại khoa trong thai nghén
Thiếu oxy trong quá trình phát triển của thai trong quí đầu có thể dẫn đến dị dạng bẩm sinh. Như vậy quí hai thường là thời gian thích hợp để tiến hành phẫu thuật
Đề phòng huyết tán của trẻ sơ sinh
Những phần tử kháng thể quá lớn không qua được qua rau thai và ảnh hưởng đến thai có Rh dương tính. Độ thanh thải globulin của người mẹ đủ thấp để tiếp tục bảo vệ được 12 tuần.
Cho con bú: nuôi con bằng sữa mẹ
Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp ích về mặt thời gian, đầu tiên, được các thầy thuốc, y tá và các bà mẹ nuồi con bằng sữa mẹ ủng hộ
Những vấn đề cơ bản chăm sóc trước đẻ
Chăm sóc trước đẻ nên bắt đầu sớm và duy trì đều đặn trong thời kỳ từ 0 đến 28 tuần thì khám 4 tuần 1 lần, 28 - 36 tuần: 2 tuần một lần; 36 tuần trở đi: khám hàng tuần.
Chảy máu trong quý ba thai kỳ
Bệnh nhân nên được nằm viện và nghỉ ngơi tại giường liên tục theo dõi thai. Xét nghiệm máu toàn phần phải làm hai đến bốn nhóm máu đã phân nhóm và thử phản ứng chéo.
Đề phòng chuyển dạ đẻ non
Giáo dục bệnh nhân để nhận biết những cơn co tử cung đều đặn thường xuyên bằng cách báo động cho nhân viên y tế để đánh giá những bệnh nhân hây sớm.