Đề phòng huyết tán của trẻ sơ sinh

2016-12-12 01:18 PM

Những phần tử kháng thể quá lớn không qua được qua rau thai và ảnh hưởng đến thai có Rh dương tính. Độ thanh thải globulin của người mẹ đủ thấp để tiếp tục bảo vệ được 12 tuần.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Kháng thể kháng Rh0 (D) chịu trách nhiệm gây ra những trường hợp nặng nhất về bệnh huyết tán ở trẻ sơ sinh (chứng nguyên hòng cầu huyết thai nhi). Khoảng 15% người da trắng và tỷ lệ thấp hơn nhiều ở người da đen và châu Á có Rh0 (D) âm tính. Nếu một phụ nữ Rh0 (D) âm tính mang thai Rh0 (D) dương tính, bẩ ta sẽ sản sinh kháng thể chống Rh0 (D) khi hồng cầu của thai nhi tiến vào tuần hoàn người mẹ lúc đẻ (hoặc trong lúc sẩy thai, chửa ngoài tử cung, rau bong non, hoặc những vấn đề chảy máu trước đẻ khác). Kháng thể này một khi đã được sản sinh ra, vẫn giữ trong tuần hoàn của người mẹ và đặt ra sự đe dọạ bệnh huyết tán đối với những thai nhi Rh dương tính sau này.

Kháng thể thụ động chống lại bệnh huyết tán của trẻ sơ sinh đã đạt được kết quả bằng globulin miễn dịch Rh0 (D), được cô đặc tinh chế kháng thể chống kháng nguyên Rh0 (D). Globulin miễn dịch Rh0 (D) được cho trong vòng 72 giờ sau đẻ (hoặc sẩy thai tự nhiên, hoặc nạo thai, hoặc chửa ngoài tử cung). Những kháng thể globulin miễn dịch phá hủy những tế bào thai nhi Rh dương tính từ đó người mẹ sẽ không sản sinh ra chất kháng Rh0 (D). Trong lần có thai tiếp theo mà thai Rh dương tính, chứng nguyên hồng cầu huyết sẽ được ngăn chặn. Liều lượng thông thường của globulin miễn dịch Rh0 (D) để ngăn ngừa miễn dịch đồng loại là một lọ (300mg) tiêm bắp thịt.

Gần đây người ta đã chứng minh rằng, hiếm có phụ nữ Rh âm tính sẽ trở nên nhạy cảm bởi những đợt chảy máu ít giữa mẹ và thai nhi ở đầu quí ba. Một biện pháp an toàn thêm vào là dùng globulin miễn dịch vào tuần lễ thứ 28 của thai nghén. Những phần tử kháng thể quá lớn không qua được qua rau thai và ảnh hưởng đến thai có Rh dương tính. Độ thanh thải globulin của người mẹ đủ thấp để tiếp tục bảo vệ được 12 tuần.

Những mức độ từ nhẹ đến trung bình của bệnh tan huyết tiếp tục xảy ra bằng cách kết hợp với các nhóm phụ Rh (C, c, hoặc E) hoặc Kell, Kidd và những yếu tố khác. Bởi vậy, những kháng thể không điển hình nên được kiểm tra trong quí ba cho tất cả các trường hợp thai nghén.

Bài viết cùng chuyên mục

Chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt thai nghén

Những biểu hiện thai và triệu chứng sau thường do thai nghén gây ra, nhưng không có dấu hiệu nào dùng để chẩn đoán được, Việc ghi nhận thời gian

U nguyên bào nuôi do thai

Chửa trứng bán phần có xu hướng theo sau là giai đoạn lành tính, trong khi chửa trứng toàn phần có khuynh hướng đa số trở thành ung thư nguyên bào nuôi.

Sẩy thai liên tiếp

Sẩy thai liên tiếp là chấn đoán lâm sàng đúng hơn là chẩn đoán bệnh lý. Những dấu hiệu lâm sàng cũng tương tự như những điều được quan sát thấy ở các loại sẩy thai khác.

Nôn trong thai nghén

Nôn nặng, dai dẳng trong khi có thai gọi là chứng nôn nghén nặng, có thể làm cho kiệt quệ cần phải nằm viện. Sự mất nước, nhiễm toan, suy dinh dưỡng có thể phát triển cùng với sự nôn mửa kéo dài.

Những biến chứng ngoại khoa trong thai nghén

Thiếu oxy trong quá trình phát triển của thai trong quí đầu có thể dẫn đến dị dạng bẩm sinh. Như vậy quí hai thường là thời gian thích hợp để tiến hành phẫu thuật

Chửa ngoài tử cung

Thử nghiệm thai nghén định lượng trong huyết thanh nói chung cho thấy có mức độ thấp hơn so với thai nghén bình thường cùng tuổi thai

Đề phòng chuyển dạ đẻ non

Giáo dục bệnh nhân để nhận biết những cơn co tử cung đều đặn thường xuyên bằng cách báo động cho nhân viên y tế để đánh giá những bệnh nhân hây sớm.

Tiền sản giật và sản giật

Không có cách can thiệp nào tỏ ra là có giá trị để làm giảm tần suất xẩy ra hay tính nghiêm trọng của quá trình qua nghiên cứu một cách khách quan bao gồm lọt tiểu

Du lịch và tiêm chủng trong khi có thai

Gama globulin lưu trữ để ngăn ngừa viêm gan A là an toàn và không mang lại nguy cơ lây truyền HIV. Chloroquin có thể được sử dụng đề phòng bệnh sốt rét trong khi mang thai, và proguanil cũng an toàn.

Những vấn đề cơ bản chăm sóc trước đẻ

Chăm sóc trước đẻ nên bắt đầu sớm và duy trì đều đặn trong thời kỳ từ 0 đến 28 tuần thì khám 4 tuần 1 lần, 28 - 36 tuần: 2 tuần một lần; 36 tuần trở đi: khám hàng tuần.

Tình trạng bệnh nội khoa gây biến chứng thai nghén

Thai nghén đi kèm với sự tăng đề kháng của các mô đối với insulin, dẫn đến tăng insulin trong máu cũng như tăng glucose và triglycerid, những biến đổi này là do lactogen rau thai

Viêm vú hậu sản

Viêm vú thường bắt đầu trong vòng ba tháng sau đẻ và có thể bắt đâu với một vết thương hay nứt núm vú. Có sự viêm mô tế bào rõ ràng ở vùng tổ chức vú, với biểu hiện đỏ, sưng, nóng tại chỗ và sốt.

Chảy máu trong quý ba thai kỳ

Bệnh nhân nên được nằm viện và nghỉ ngơi tại giường liên tục theo dõi thai. Xét nghiệm máu toàn phần phải làm hai đến bốn nhóm máu đã phân nhóm và thử phản ứng chéo.

Cho con bú: nuôi con bằng sữa mẹ

Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp ích về mặt thời gian, đầu tiên, được các thầy thuốc, y tá và các bà mẹ nuồi con bằng sữa mẹ ủng hộ

Dinh dưỡng trong khi có thai

Những chất rỗng calo nên tránh, và chế độ ăn nên chứa những thức ăn sau: thực phẩm protein nguồn gốc động vật và thực vật, sữa và các sản phẩm của sữa

Sẩy thai tự nhiên

Hiện nay không có chứng cớ rằng đầu máy video hoặc lĩnh vực điện tử phối hợp liên quan đến vấn đề tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên