- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa
- Ung thư niêm mạc tử cung: ung thư thân hoặc đáy tử cung
Ung thư niêm mạc tử cung: ung thư thân hoặc đáy tử cung
Những phiến đồ Papanicolaou của cổ tử cung thỉnh thoảng cũng cho thấy được những tế bào niêm mạc tử cung không điển hình nhưng chúng không luôn là công cụ để chẩn đoán.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhận định chung
Ung thư tuyến của thân tử cung là loại ung thư thứ hai hay gặp ở đường sinh dục nữ. Thường xảy ra ở phụ nữ từ 50 - 70 tuổi. Nhiều bệnh nhân có vấn đề này là những người đã từng dùng estrogen đơn thuần trong quá khứ (bệnh của họ phát triển sau 10 năm hay lâu hơn nữa). Sự tăng nguy cơ của họ có vẻ vẫn còn tồn tại trong 10 năm hay hơn tính từ khi ngừng dùng thuốc. Béo bệu, chưa đẻ lần nào, đái tháo đường và buồng trứng đa nang có thời kỳ không phóng noãn kéo dài và sử dụng kéo dài tamoxifen để điều trị ung thư vú cũng là những yếu tố nguy cơ. Chảy máu bất thường là dấu hiệu tiêu biểu trong 80% các trường hợp. Ung thư niệm mạc tử cung có thể gây tắc chít cổ tử cung kèm theo ứ mủ (ứ mủ trong tử cung) hoặc ứ máu (ứ máu trong tử cung) gây ra đau bụng dưới. Tuy nhiên, đau thường xảy ra trong quá trình muộn của bệnh, khi có di căn hay viêm nhiễm.
Những phiến đồ Papanicolaou của cổ tử cung thỉnh thoảng cũng cho thấy được những tế bào niêm mạc tử cung không điển hình nhưng chúng không luôn là công cụ để chẩn đoán. Chỉ có lấy máu ở trong ống cổ tử cung và niêm mạc tử cung là cách làm đáng tin cậy cho chẩn đoán. Lấy đầy đủ máu xét nghiệm ở mỗi nơi nói trên thường được làm ở cơ sở y tế, gây tê tại chỗ (phong bế cạnh cổ tử cung). Tiến hành đồng thời với soi buồng tử cung có thể là phương pháp hỗ trợ có giá trị để xác định nơi có các polip hoặc những tổn thương khác trong buồng tử cung, coi như một chỉ báo của sự phì đại và sự thay đổi tân tạo.
Đánh giá bệnh học là quan trọng để phân biệt quá sản. Trong trường hợp này, người ta thườhng điều trị bằng progestin uống có chu kỳ.
Phòng ngừa
Một mẫu niêm mạc tử cung lấy ngay ở những người có chảy máu kinh nguyệt bất thường hoặc chảy máu tử cung sau mãn kinh có thể cho thấy ung thư niêm mạc tử cung mới chớm phát cũng như ủng thư đã có biểu hiện lâm sàng. Đối với những phụ nữ sau mằn kinh dùng estrogen hoặc những phụ nữ trẻ không phóng noãn kéo dài có thể cho progestin 13 ngày cuối của vòng estrogen nhằm làm bong niêm mạc tử cung có chu kỳ. Điều này liên quan với việc làm giảm tỉ lệ mắc ung thư tuyến tử cung.
Phân chia giai đoạn
Gây mê, lấy mẫu bệnh phẩm niêm mạc tử cung và trong cổ tử cung, chiếu X quang ngực, chụp tiết niệu tiêm cản quang tĩnh mạch, soi bàng quang, sỏi đại tràng sigma và cộng hưởng từ hạt nhân sẽ giúp xác định được sự lan rộng của bệnh và cách điều trị thích hợp. Cách định giai đoạn dựa trên đánh giá bệnh học và khí phẫu thuật.
Điều trị
Điều trị bao gồm cắt tử cung hoàn toàn và cắt phần phụ hai bên. Lấy bệnh phẩm trong ổ bụng để xét nghiệm tế bào học được coi là một việc làm thường quy. Chiếu tia ban đầu hay đặt phóng xạ trong buồng tử cung được chỉ định cho những ung thư ít biệt hóa hoặc nếu tử cung to lên một cách rõ ràng mà không có u xơ tử cung. Nếu ung thư xâm nhiễm sâu vào lớp cổ tử cung hoặc nếu hạch bạch huyết trước động mạch chủ tỏ ra cùng với khối u thì chỉ định chạy tia hậu phẫu. Để làm giảm bớt sự phát triển hoặc di căn ung thư tuyến tử cung có thể hoàn thiện điều trị bằng các liều cao progestin, như dùng medroxyprogesteron 400 mg tiêm bắp hàng tuần hoặc megestrol acetat uống 80 - 160 mg mỗi ngày.
Tiên lượng
Với chẩn đoán và điều trị sớm, tỉ lệ sống thêm 5 năm là 80 - 85%.
Bài viết cùng chuyên mục
Hội chứng trước hành kinh
Nhiều loại vitanim và chất khoáng liều tương đối cao được gợi ý dùng trong hội chứng này, nhưng không một loại nào tỏ ra có ích, qua các nghiên cứu mù kép và lại có một số tác dụng phụ không mong muốn.
Thống kinh
Thuốc được dùng khi bắt đầu ra máu kinh sẽ tránh được việc dùng thuốc cẩu thả khi mới có thai, Thuốc được dùng tiếp tục trên cơ sở 2, 3 ngày
U xơ tử cung
Ở phụ nữ có thai, u xơ đôi khi gây thêm các nguy cơ xảy thai, ngôi bất thường, không lọt được, chuyển dạ đẻ non, đau khu trú, đẻ khó.
Phá thai: chỉ định và điều trị
Những biến chứng tiếp sau phá thai phạm pháp thường cần được chăm sóc cấp cứu chống ra máu, sốc nhiễm khuẩn hay thủng tử cung
Thuốc tránh thai uống
Thuốc tránh thai uống liều thấp không có chống chỉ định dùng kéo dài đối với những phụ nữ 35 - 40 tuổi, không hút thuốc lá và không có chống chỉ định gì
Bệnh viêm tiểu khung
Những phụ nữ có đau bụng dưới, khám thấy nhạy cảm đau ở phần phụ hoặc tử cung khi di động nên được cân nhác là bị PID và nên được điều trị bằng kháng sinh trừ khi có chẩn đoán
Vô sinh
Những lần khám tư vấn cá nhân được hướng dẫn, đề xuất một xử lý tâm lý tình dục nếu không làm phiền hà hoặc đáng phàn nàn
Không phóng noãn liên tục
Ở những bệnh nhân béo bệu có buồng trứng đa nang, điều trị bằng cách làm giảm cân thường có hiệu quả, giảm mỡ cơ thể sẽ làm giảm thấp sự chuyển đổi androgen thành estron
Tránh thai sau giao hợp
Đặt dụng cụ tử cung tránh thai trong vòng 5 ngày sau giao hợp không chuẩn bị vào giữa vòng kinh cũng có thể tránh được thai, các dụng cụ tử cung mang đồng
Lạc nội mạc tử cung
Lạc nội mạc tử cung phải được phân biệt với bệnh viêm tiểu khung, u buồng trứng và u xơ tử cung. Viêm vòi trứng và lạc nội mạc tử cung là các triệu chứng trầm trọng thêm bởi kinh nguyệt
Hội chứng mãn kinh
Tuổi trung bình của mãn kinh ở các xã hội phương Tây là 51 tuổi. Mãn kinh sớm được định nghĩa là suy buồng trứng và mất kinh trước tuổi 40 thường do di truyền hay tự miễn.
Chảy máu bất thường tiền mãn kinh
Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng thường là do sự phát triển quá mức của niêm mạc tử cung dưới sự kích thích của progesteron: điều này xảy ra trong những vòng kinh không phóng noãn.
Ung thư trong biểu mô của cổ tử cung
Chẩn đoán phỏng chừng bằng phương pháp tế bào học sàng lọc ở một quần thể không có triệu chứng và không nhìn thấy có thay đổi gì đại thể ở cổ tử cung
Giao hợp đau
Giao hợp đau có thể do viêm âm hộ, hay âm đạo, gây ra co thít âm đạo, màng trinh không giãn hoàn toàn, âm đạo không được bôi trơn đầy đủ.
Tránh thai dựa trên cơ sở biết các thời kỳ dễ có thai
Cơ sở của phương pháp là tự người phụ nữ quan sát thấy chất nhầy cổ tử cung tăng, trong và tăng đàn hồi, đau bụng khó chịu một thời gian ngắn vào giữa vòng kinh
Triệt sản: chỉ định và điều trị
Vài nghiên cứu cho thấy có thể liên quan với ung thư tuyến tiền liệt nhưng bằng chứng còn mỏng manh và không chắc chắn
Polip cổ tử cung
Những khối polip có thể nhìn thấy được trong lỗ cổ tử cung qua đặt mỏ vịt, Cần phân biệt các polip cổ tử cung với các bệnh lý tân tạo dạng polip của niêm mạc tử cung
Ung thư âm hộ
Cũng như những tổn thương tế bào lát của cổ tử cung, sự loạn sản ở các mức nặng nhẹ khác nhau của âm hộ bây giờ đã được nhận biết, Hệ thống phân độ về sự tạo u
Màng ngăn âm đạo và mũ cổ tử cung
Vì có một chút nguy cơ gây hội chứng sốc do nhiễm độc, mũ cổ tử cung hay màng ngăn âm đạo đều không được để lâu quá 12 - 18 giờ ở trong âm đạo và cũng không được dùng khi hành kinh.
Thuốc tránh thai tiêm và cấy: các progestin tác dụng kéo dài
Một bộ gồm 6 nang nhỏ bằng silastic cấy vào dưới da ở mặt trong cánh tay, Chúng giải phóng hàng ngày và tác dụng tránh thai trong 5 năm
Các khối u buồng trứng
Một đợt ngăn ngừa phóng noãn trong 2 tháng bằng viên thuốc tránh thai làm cho các nang cơ năng biến mất
Ung thư cổ tử cung
Những dấu hiệu hay gặp nhất là rong kinh, ra huyết thấm giọt sau giao hợp và loét cổ tử cung. Có thể có máu hoặc mủ, có mùi, không gây ngứa, có thể xuất hiện sau xâm nhiễm.
Són đái ở phụ nữ
Sự tăng áp lực đột ngột trong bụng được truyền đến bàng quang hoạt động bình thường mà không đến niệu đạo bị sa và như vậy nước tiểu có khuynh hướng bị rò vào lúc này.
Viêm âm đạo
Có thể kiểm tra pH của âm đạo, pH thường là cao hơn 4,5 khi bị nhiễm Trichomonas và có thể nhiễm vi khuẩn trong âm đạo. Tiếp đó, khám bằng hai tay để xem tiểu khung có bị viêm nhiễm không.
Viêm cổ tử cung
Nếu chất tiết dịch từ ống cổ tử cung là chất nhầy mủ màu vàng và soi dưới kính hiển vi khô phóng đại lớn trên mỗi kính trường có từ 10 bạch cầu đa nhân trở lên thì gợi ý nghĩ đến chlamydia.