U xơ tử cung

2016-12-07 10:57 AM

Ở phụ nữ có thai, u xơ đôi khi gây thêm các nguy cơ xảy thai, ngôi bất thường, không lọt được, chuyển dạ đẻ non, đau khu trú, đẻ khó.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những yếu tố cần thiết trong chẩn đoán

Tử cung to lên không đều đặn (có thể không có triệu chứng).

Chảy máu âm đạo nhiều hoặc không có chu kỳ, thống kinh.

Đau vùng tiểu khung cấp và tái phát nếu khối u có cuống bị xoắn hoặc bị nhồi máu.

Những triệu chứng do chèn ép vào những cơ quan lân cận (những khối u to).

Nhận định chung

U xơ là một khối u lành tính hay gặp nhất của đường sinh dục nữ. Đó là một khối u tử cung riêng biệt, tròn, chắc, thường là nhiều nhân cấu tạo bởi tổ chức cơ trơn và tổ chức liên kết. Sự phân loại phù hợp nhất là dựạ vào vị trí giải phẫu: (1) trong thành tử cung, (2) dưới niêm mạc, (3) dưới thanh mạc, (4) trong dây chằng rộng, (5) khối u ký sinh (có nghĩa là nhận được sự cung cấp máu từ một cơ quan đến gắn vào nó) và (6) cổ tử cung, u xơ dưới niêm mạc có thể trở thành có cuống và sa xuống qua cổ tử cung vào trong âm đạo.

Các triệu trứng và dấu hiệu

Ở những phụ nữ không có thai, các u xơ thường không có triệu chứng. Tuy nhiên chúng có thể gây ra thường xuyên đi tiểu, thống kinh, chảy máu nhiều (thường là kèm thiếu máu), hoặc những biến chứng khác do có một khối ở bụng. Đôi khi, thoái hóa xảy ra gây đau dữ dội. Vô sinh có thể do u xơ làm biến dạng buồng tử cung.

Ở phụ nữ có thai, u xơ đôi khi gây thêm các nguy cơ: xảy thai, ngôi bất thường, không lọt được, chuyển dạ đẻ non, đau khu trú (do thoái hóa đỏ hoặc xoắn), đẻ khó, chuyển dạ không có hiệu quả và chảy máu sau đẻ.

Phát hiện cận lâm sàng

Hemoglobin có thể giảm do hậu quả của mất máu, nhưng có ít trường hợp tặng hồng cầu, có thể do u xơ sản sinh chất tạo hồng cầu (erythropoietin)

Ghi hình ảnh

Siêu âm sẽ khẳng định sự hiện diện của u xơ tử cung và có thể đươc sử dụng thường xuyên để theo dõi sự phát triển. Khi những u xơ dưới thanh mạc hoặc có cuống đang được theo dõi thì siêu âm là quan trọng để loại trừ những khối u buồng trứng. MRI có thể mô tả các u xơ trong thành hoặc dưới niêm mạc một cách chinh xác. Chụp tử cung hoặc soi buồng tử cung cũng có thể xác định u xơ cổ tử cung hay u xơ dưới niêm mạc.

Chẩn đoán phân biệt

Sự to ra không đồng đều của u xơ tử cung phải được phân biêt với sự to ra tương tự nhưng cân đối trong trường hợp tử cung có thai hoặc lạc nội mạc tử cung, u xơ dưới thanh mạc phải được phân biệt với những khối u buồng trứng. Ung thư cơ trơn là một khối u hiếm gặp xảy ra 0,5% những phụ nữ đã được mổ với chẩn đoán u xơ tử cung có triệu chứng. Điều đó rất hiếm ở tuổi dưới 40 và sau đó tỷ lệ thường tăng lên.

Điều trị

Các hiện pháp cấp cứu

Nếu bệnh nhân bị thiếu máu rõ rệt do những kỳ kinh kéo dài, nhiều, điều trị trước mổ bằng điều trị tạm thời medroxyprogesteron acetat: cứ 28 ngày tiêm bắp thịt 150mg, hoặc danazol 400 - 800mg/ngày, sẽ làm giảm hoặc ngừng chảy máu, và điều trị thiếu máu bằng nội khoa co thể được thực hiện trước mổ. Phẫu thuật cấp cứu là cần thiết trong trường hợp có xoắn cấp tính của u xơ có cuống. Chỉ định cấp cứu tách bỏ nhân xơ trong thời kỳ có thai bị xoắn, sảy thai không phải là một hậu quả không thể tránh được.

Những biện pháp đặc hiệu

(1) Phụ nữ không có thai: Với những phụ nữ không có thai, những u xơ nhỏ không có triệu chứng nên được theo dõi 6 tháng một lần. Tách bỏ nhân xơ chọn lọc có thể làm để bảo tồn tử cung, u xơ tử cung không đỏi hỏi phẵu thuật với mục đích cấp cứu trừ khi chúng gây ra chèn ép đáng kể vào niệu quản, bàng quang hoặc ruột hoặc chảy máu nặng dẫn đến thiếu máu hoặc trừ khi chúng phát triển to lên nhanh chóng. Những u xơ cổ tử cung to hơn 3 - 4 cm đường kính hoặc u xơ có cuống lồi ra qua cổ tử cung thì phải được cắt bỏ. Những u xơ dưới niêm mạc có thể được cát bỏ bằng laser hoặc dụng cụ cắt bỏ qua nội soi buồng tử cung.

Những chất đồng đẳng GnRH như là leuprolid 3,75mg tiêm báp thịt hàng tháng, hoặc nafarelin 0,2 - 0,4mg dạng hít hai lần một ngày đang được sử dụng trước mổ tròng thời gian 2 - 3 tháng để tạo ra thiểu năng tuyến sinh dục có hồi phục làm giảm kích thước u xơ, ngăn chặn sự phát triển thêm của khối u và giảm vận mạch xung quanh. Nếu bệnh nhân không được tiến hành phẫu thuật, sự phát triển lại của u xơ xảy ra trong vòng vài ba tháng sau khi ngừng GnRH.

(2) Những bệnh nhân có thai: Nếu như vào tháng thứ tư của thai nghén mà tử cung không to hơn so với tử cung có thai tháng thứ sáu có thể sẽ có diễn biến không phức tạp - Nếu khối u (đặc biệt khối u cổ tử cung) có kích thước bằng thai tháng thứ 5, tháng thứ 6 vào lúc thai tháng thứ hai thì xẩy thai có thể xảy ra. Nếu có thể, nên trì hoãn việc tách bỏ nhân xơ hay cắt tử cung đến tận 6 tháng sau khi đẻ, tại thời điểm đó sự co hồi tử cung và sự thoái triển của khối u sẽ được hoàn toàn.

Các biện pháp ngoại khoa

Các biện pháp ngoại khoa có thể áp dụng được để điều trị u xơ là tách bỏ nhân xơ và cát tử cung toàn phần hoặc bán phần qua đường bụng hoặc âm đạo. Tách bỏ nhân xơ là điều trị được chọn trong tuổi sinh đẻ.

Tiên lượng

Điều trị ngoại khoa là điều trị tận gốc. Những lần thai nghén về sau là không gây nguy hiểm bởi tách bỏ nhân xơ, mặc dù mổ đẻ có thể cần thiết sau khi phẫu tích rộng vào buồng tử cung.

Bài viết cùng chuyên mục

Chảy máu âm đạo sau mãn kinh

Âm hộ và âm đạo cần được kiểm ra để tìm ra vùng chảy máu, những vết loét hoặc những khối u. Cần làm phiến đồ tế bào học lấy ở cổ tử cung và túi cùng âm đạo. Có thể thấy được tế bào ung thư bị bong ra.

Hội chứng mãn kinh

Tuổi trung bình của mãn kinh ở các xã hội phương Tây là 51 tuổi. Mãn kinh sớm được định nghĩa là suy buồng trứng và mất kinh trước tuổi 40 thường do di truyền hay tự miễn.

Viêm âm đạo

Có thể kiểm tra pH của âm đạo, pH thường là cao hơn 4,5 khi bị nhiễm Trichomonas và có thể nhiễm vi khuẩn trong âm đạo. Tiếp đó, khám bằng hai tay để xem tiểu khung có bị viêm nhiễm không.

Hiếp dâm

Về phía kẻ cưỡng dâm, cưỡng dâm diễn ra trong tình cảm giận dữ, hung hãn và kích thích tình dục. Kẻ cưỡng hiếp thường là một gã đàn ông dùng giao hợp để khủng bố và hạ nhục người phụ nữ.

Triệt sản: chỉ định và điều trị

Vài nghiên cứu cho thấy có thể liên quan với ung thư tuyến tiền liệt nhưng bằng chứng còn mỏng manh và không chắc chắn

Polip cổ tử cung

Những khối polip có thể nhìn thấy được trong lỗ cổ tử cung qua đặt mỏ vịt, Cần phân biệt các polip cổ tử cung với các bệnh lý tân tạo dạng polip của niêm mạc tử cung

Tránh thai dựa trên cơ sở biết các thời kỳ dễ có thai

Cơ sở của phương pháp là tự người phụ nữ quan sát thấy chất nhầy cổ tử cung tăng, trong và tăng đàn hồi, đau bụng khó chịu một thời gian ngắn vào giữa vòng kinh

Màng ngăn âm đạo và mũ cổ tử cung

Vì có một chút nguy cơ gây hội chứng sốc do nhiễm độc, mũ cổ tử cung hay màng ngăn âm đạo đều không được để lâu quá 12 - 18 giờ ở trong âm đạo và cũng không được dùng khi hành kinh.

Chảy máu bất thường tiền mãn kinh

Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng thường là do sự phát triển quá mức của niêm mạc tử cung dưới sự kích thích của progesteron: điều này xảy ra trong những vòng kinh không phóng noãn.

Ung thư âm hộ

Cũng như những tổn thương tế bào lát của cổ tử cung, sự loạn sản ở các mức nặng nhẹ khác nhau của âm hộ bây giờ đã được nhận biết, Hệ thống phân độ về sự tạo u

Hậu quả của tiếp xúc với diethylstilbestron trong tử cung

Hiện nay tất cả các phụ nữ phơi nhiễm đều được khuyên bước đầu soi cổ tử cung kiểm tra, sơ bộ tìm những vùng biểu mô bất thường của âm đạo vậ cổ tử cùng

Viêm cổ tử cung

Nếu chất tiết dịch từ ống cổ tử cung là chất nhầy mủ màu vàng và soi dưới kính hiển vi khô phóng đại lớn trên mỗi kính trường có từ 10 bạch cầu đa nhân trở lên thì gợi ý nghĩ đến chlamydia.

Giao hợp đau

Giao hợp đau có thể do viêm âm hộ, hay âm đạo, gây ra co thít âm đạo, màng trinh không giãn hoàn toàn, âm đạo không được bôi trơn đầy đủ.

Lạc nội mạc tử cung

Lạc nội mạc tử cung phải được phân biệt với bệnh viêm tiểu khung, u buồng trứng và u xơ tử cung. Viêm vòi trứng và lạc nội mạc tử cung là các triệu chứng trầm trọng thêm bởi kinh nguyệt

Sa sinh dục

Sa tiểu tràng cũng có thể kèm theo sa tử cung hoặc có thể tiếp theo cắt tử cung khi mà các phần nâng đỡ vòm ầm đạo bị yếu đi hoặc là túi cùng ở sâu

Ung thư cổ tử cung

Những dấu hiệu hay gặp nhất là rong kinh, ra huyết thấm giọt sau giao hợp và loét cổ tử cung. Có thể có máu hoặc mủ, có mùi, không gây ngứa, có thể xuất hiện sau xâm nhiễm.

Thuốc tránh thai uống

Thuốc tránh thai uống liều thấp không có chống chỉ định dùng kéo dài đối với những phụ nữ 35 - 40 tuổi, không hút thuốc lá và không có chống chỉ định gì

Tránh thai sau giao hợp

Đặt dụng cụ tử cung tránh thai trong vòng 5 ngày sau giao hợp không chuẩn bị vào giữa vòng kinh cũng có thể tránh được thai, các dụng cụ tử cung mang đồng

Vô sinh

Những lần khám tư vấn cá nhân được hướng dẫn, đề xuất một xử lý tâm lý tình dục nếu không làm phiền hà hoặc đáng phàn nàn

Các khối u buồng trứng

Một đợt ngăn ngừa phóng noãn trong 2 tháng bằng viên thuốc tránh thai làm cho các nang cơ năng biến mất

Thuốc tránh thai tiêm và cấy: các progestin tác dụng kéo dài

Một bộ gồm 6 nang nhỏ bằng silastic cấy vào dưới da ở mặt trong cánh tay, Chúng giải phóng hàng ngày và tác dụng tránh thai trong 5 năm

Chất xốp, bọt, kem, thạch đông và viên đạn tránh thai

Chất bọt, kem và thạch đông, viên đạn cũng có những lợi ích là sử dụng đơn giản và dễ kiếm, Điều bất lợi của chúng ta là có tỉ lệ thất bại cao hơn so với màng ngăn âm đạo

Thống kinh

Thuốc được dùng khi bắt đầu ra máu kinh sẽ tránh được việc dùng thuốc cẩu thả khi mới có thai, Thuốc được dùng tiếp tục trên cơ sở 2, 3 ngày

Ung thư niêm mạc tử cung: ung thư thân hoặc đáy tử cung

Những phiến đồ Papanicolaou của cổ tử cung thỉnh thoảng cũng cho thấy được những tế bào niêm mạc tử cung không điển hình nhưng chúng không luôn là công cụ để chẩn đoán.

Ung thư trong biểu mô của cổ tử cung

Chẩn đoán phỏng chừng bằng phương pháp tế bào học sàng lọc ở một quần thể không có triệu chứng và không nhìn thấy có thay đổi gì đại thể ở cổ tử cung