- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa
- Phá thai: chỉ định và điều trị
Phá thai: chỉ định và điều trị
Những biến chứng tiếp sau phá thai phạm pháp thường cần được chăm sóc cấp cứu chống ra máu, sốc nhiễm khuẩn hay thủng tử cung
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hạn chế có thai một cách tự nguyện làm lợi cho những người phụ nữ, cho cả những người đàn ông và con cái của họ. Tránh thai cần đáp ứng được với tất cả mọi phụ nữ và nam giới trong tuổi sinh đẻ. Giáo dục về tránh thai và sự tiếp cận với các viên thuốc tránh thai hay dụng cụ tử cung là đặc biệt quan trọng đối với những nam nữ thanh niên dưới 20 tuổi và đối với những phụ nữ sau đẻ, sau sảy.
Giáo dục về bệnh lây truyền theo đường tình dục, đặc biệt AIDS cần đước tiến hành cho tất cả những ai có hoạt động tình dục song song song với việc thông báo rằng bao cao su dùng kèm với thuốc diệt tinh trùng có độ bảo vệ cao (nhưng không bảo vệ hoàn toàn) cho cả hai giới chống lại bệnh lây truyền theo đường tinh dục cũng như tránh thai. Dịch AIDS lan rộng trên thế giới đã tạo ra sự thay đổi xu hướng một cách có ý nghĩa sang sử dụng bao cao su cộng với thuốc diệt tinh trùng.
Từ năm 1973, khi có luật phá thai ở Mỹ, tỉ lệ tử vong người mẹ đã giảm xuống rõ rệt bởi vì các trường hợp phá thai phạm pháp và tự phá thai đã được thay thế bằng những phương pháp y học an toàn hơn. Phá thai trong quý đầu có thai nghén được tiến hành bằng cách hút và gây vô cảm tại chỗ. Một kỹ thuật tương tự là nong cổ tử cung và lấy thai ra được dùng vào quý hai, gây mê toàn thân hay vô cảm tại chỗ. Những kỹ thuật bơm dung dịch muối ưu trương vào buồng ối, hoặc các prostaglandin cũng có thể dùng khi có thai trên 18 tuần tính từ ngày đầu của kỳ kinh cuối cùng nhưng khó khăn hơn cho người bệnh. Phá thai ít khi được tiến hành sau tuần lễ thứ 20 tính từ ngày kinh cuối cùng.
Thường người ta nghĩ rằng thai bắt đầu có thể sống được vào quãng 24 tuần tuổi thai, Phá thai trong pháp luật có tỉ lệ tử vong 1/100.000. Các tỉ lệ mắc bệnh và tử vong tăng cùng với tuổi thai. Thông thường tại Mỹ, phá thai trước tuần 12 của thai nghén chiếm 90% và chỉ 3 - 4% sau 17 tuần. Mọi cố gắng cần được đặt ra để tiếp tục phá thai sớm hơn.
Những biến chứng do phá thai gây ra gồm sót thai, rau (thường kèm theo nhiễm khuẩn và chảy máu nặng) và chửa ngoài dạ con. Những phụ nữ có sốt, ra huyết hay đau bụng sau phá thai cần được khám: thường cần cho các kháng sinh phổ rộng và hút lại buồng tử cung. Khuyên nằm viện nếu viêm phần phụ cấp tính đòi hởi phải tiêm kháng sinh vào tĩnh mạch.
Những biến chứng tiếp sau phá thai phạm pháp thường cần được chăm sóc cấp cứu chống ra máu, sốc nhiễm khuẩn hay thủng tử cung. Cần cho globulin miễn dịch Rh sau khi phá thai đối với tất cả những phụ nữ có Rh âm tính. Cần bàn kỹ lưỡng việc tránh thai và cung cấp các biện pháp tránh thai hay thuốc viên tránh thai vào dịp phá thai. Đối với những phụ nữ có tiền sử bệnh viêm tiểu khung, chỉ định kháng sinh dự phòng một liều duy nhất doxycyclin 200mg uống 1 giờ trước khi tiến hành biện pháp hay dung dịch penicillin G 1 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch 30 phút trước. Thai vào qúy II, dùng cefazolin 1 g tiêm tĩnh mạch 30 phút trước khi tiến hành thủ thuật. Nhiều nhà lâm sàng chỉ định tetracyclin 500mg trong 4 lần/ngày trong 5 ngày sau thủ thuật cho tất cả các bệnh nhân.
Những di chứng lâu dài của phá thai liên tiếp cũng đã được nghiên cứu, nhưng cũng không thấy có ý nghĩa gì về tăng tỉ lệ chết thai hay đẻ non sau này. Có cảm giác rằng những di chứng đối nghịch có thể được giảm thiểu bằng phá thai sớm để chỉ cần nong cổ tử cung ít hay có thể dùng la-mi-ne để cổ tử cung mở từ từ.
Thuốc uống phá thai, mifepristone (Ru 486) dùng liều duy nhất 600mg, tiếp prostaglandin đặt âm đạo hay tiêm bắp thịt vào 36 - 48 giờ sau, có thể đạt được 95% thai ra tự nhiên, tuổi thai 8 tuần, với biến chứng tối thiểu.
Thuốc tác dụng như một kháng hormon đối với progesteron và như một glucocorticoid không gây suy tuyến thượng thận. Có thể gặp cách sử dụng này trong lâm sàng điều trị bệnh Cushing, u màng não, ung thư vú có thụ thể progesteron, lạc nội mạc tử cung và một số nhiễm virus cũng như trong khởi động sự chín muồi của cổ tử cung gây chuyển dạ. Thường sẵn có ở một số nước châu Ằu nhưng chưa thấy sử dụng ở Mỹ.
Bài viết cùng chuyên mục
Vô sinh
Những lần khám tư vấn cá nhân được hướng dẫn, đề xuất một xử lý tâm lý tình dục nếu không làm phiền hà hoặc đáng phàn nàn
Ung thư âm hộ
Cũng như những tổn thương tế bào lát của cổ tử cung, sự loạn sản ở các mức nặng nhẹ khác nhau của âm hộ bây giờ đã được nhận biết, Hệ thống phân độ về sự tạo u
Ung thư cổ tử cung
Những dấu hiệu hay gặp nhất là rong kinh, ra huyết thấm giọt sau giao hợp và loét cổ tử cung. Có thể có máu hoặc mủ, có mùi, không gây ngứa, có thể xuất hiện sau xâm nhiễm.
Viêm cổ tử cung
Nếu chất tiết dịch từ ống cổ tử cung là chất nhầy mủ màu vàng và soi dưới kính hiển vi khô phóng đại lớn trên mỗi kính trường có từ 10 bạch cầu đa nhân trở lên thì gợi ý nghĩ đến chlamydia.
Các khối u buồng trứng
Một đợt ngăn ngừa phóng noãn trong 2 tháng bằng viên thuốc tránh thai làm cho các nang cơ năng biến mất
Không phóng noãn liên tục
Ở những bệnh nhân béo bệu có buồng trứng đa nang, điều trị bằng cách làm giảm cân thường có hiệu quả, giảm mỡ cơ thể sẽ làm giảm thấp sự chuyển đổi androgen thành estron
Thống kinh
Thuốc được dùng khi bắt đầu ra máu kinh sẽ tránh được việc dùng thuốc cẩu thả khi mới có thai, Thuốc được dùng tiếp tục trên cơ sở 2, 3 ngày
Nang và áp xe tuyến Bartholin
Mủ hay chất tiết dịch lấy ra từ tuyến cần được nuôi cấy để tìm lậu cầu, chlamydia và các mầm bệnh khác và để điều trị cho phù hợp; thường thì ngâm nước ấm có thể có ích
Sa tử cung
Đối với những phụ nữ lớn tuổi, không muốn giao hợp, bịt tắc một phần âm đạo là phẫu thuật đơn giản và có hiệu quả, Treo tử cung vào thành bụng
Chất xốp, bọt, kem, thạch đông và viên đạn tránh thai
Chất bọt, kem và thạch đông, viên đạn cũng có những lợi ích là sử dụng đơn giản và dễ kiếm, Điều bất lợi của chúng ta là có tỉ lệ thất bại cao hơn so với màng ngăn âm đạo
Ung thư niêm mạc tử cung: ung thư thân hoặc đáy tử cung
Những phiến đồ Papanicolaou của cổ tử cung thỉnh thoảng cũng cho thấy được những tế bào niêm mạc tử cung không điển hình nhưng chúng không luôn là công cụ để chẩn đoán.
Thuốc tránh thai tiêm và cấy: các progestin tác dụng kéo dài
Một bộ gồm 6 nang nhỏ bằng silastic cấy vào dưới da ở mặt trong cánh tay, Chúng giải phóng hàng ngày và tác dụng tránh thai trong 5 năm
Chảy máu bất thường tiền mãn kinh
Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng thường là do sự phát triển quá mức của niêm mạc tử cung dưới sự kích thích của progesteron: điều này xảy ra trong những vòng kinh không phóng noãn.
Polip cổ tử cung
Những khối polip có thể nhìn thấy được trong lỗ cổ tử cung qua đặt mỏ vịt, Cần phân biệt các polip cổ tử cung với các bệnh lý tân tạo dạng polip của niêm mạc tử cung
Són đái ở phụ nữ
Sự tăng áp lực đột ngột trong bụng được truyền đến bàng quang hoạt động bình thường mà không đến niệu đạo bị sa và như vậy nước tiểu có khuynh hướng bị rò vào lúc này.
Bệnh viêm tiểu khung
Những phụ nữ có đau bụng dưới, khám thấy nhạy cảm đau ở phần phụ hoặc tử cung khi di động nên được cân nhác là bị PID và nên được điều trị bằng kháng sinh trừ khi có chẩn đoán
Lạc nội mạc tử cung
Lạc nội mạc tử cung phải được phân biệt với bệnh viêm tiểu khung, u buồng trứng và u xơ tử cung. Viêm vòi trứng và lạc nội mạc tử cung là các triệu chứng trầm trọng thêm bởi kinh nguyệt
Giao hợp đau
Giao hợp đau có thể do viêm âm hộ, hay âm đạo, gây ra co thít âm đạo, màng trinh không giãn hoàn toàn, âm đạo không được bôi trơn đầy đủ.
Màng ngăn âm đạo và mũ cổ tử cung
Vì có một chút nguy cơ gây hội chứng sốc do nhiễm độc, mũ cổ tử cung hay màng ngăn âm đạo đều không được để lâu quá 12 - 18 giờ ở trong âm đạo và cũng không được dùng khi hành kinh.
Hiếp dâm
Về phía kẻ cưỡng dâm, cưỡng dâm diễn ra trong tình cảm giận dữ, hung hãn và kích thích tình dục. Kẻ cưỡng hiếp thường là một gã đàn ông dùng giao hợp để khủng bố và hạ nhục người phụ nữ.
U xơ tử cung
Ở phụ nữ có thai, u xơ đôi khi gây thêm các nguy cơ xảy thai, ngôi bất thường, không lọt được, chuyển dạ đẻ non, đau khu trú, đẻ khó.
Ung thư trong biểu mô của cổ tử cung
Chẩn đoán phỏng chừng bằng phương pháp tế bào học sàng lọc ở một quần thể không có triệu chứng và không nhìn thấy có thay đổi gì đại thể ở cổ tử cung
Hội chứng trước hành kinh
Nhiều loại vitanim và chất khoáng liều tương đối cao được gợi ý dùng trong hội chứng này, nhưng không một loại nào tỏ ra có ích, qua các nghiên cứu mù kép và lại có một số tác dụng phụ không mong muốn.
Sa sinh dục
Sa tiểu tràng cũng có thể kèm theo sa tử cung hoặc có thể tiếp theo cắt tử cung khi mà các phần nâng đỡ vòm ầm đạo bị yếu đi hoặc là túi cùng ở sâu
Tránh thai dựa trên cơ sở biết các thời kỳ dễ có thai
Cơ sở của phương pháp là tự người phụ nữ quan sát thấy chất nhầy cổ tử cung tăng, trong và tăng đàn hồi, đau bụng khó chịu một thời gian ngắn vào giữa vòng kinh