- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ niệu học
- Viêm mào tinh hoàn cấp
Viêm mào tinh hoàn cấp
Siêu âm bìu có thể hỗ trợ trong chẩn đoán nếu việc thăm khám khó khăn do thủy tinh mạc hoặc có các vấn đề còn tồn đọng liên quan đến chẩn đoán.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Sốt.
Các triệu chứng kích thích bài tiết.
Phì đại mào tinh hoàn gây đau.
Nhận định chung
Hầu hết các trường hợp viêm mào tinh hoàn cấp tính là do nhiễm trùng và có thể được phân thành một hoặc hai thể mà có sự phân bố độ tuổi khác nhau và có các tác nhân gây bệnh khác nhau. Các thể lây truyền qua đường tình dục xuất hiện điển hình ở nam giới dưới 40 tuổi, có kết hợp với viêm niệu đạo, và do C. trachomatis hoặc N. gonorrhoeae gây ra. Các thể lây truyền không qua đường tình dục xuất hiện điển hình ở người nhiều tuổi hơn, có các nhiễm trùng đường niệu và viêm tuyến tiền liệt kết hợp, thường do trực khuẩn Gram (-) gây ra. Con đường nhiễm trùng có lẽ qua niệu đạp lên ống phóng tinh và sau đó xuống các mạch tinh quản để đến mào tinh. Amiodaron được kết hợp với viêm mào tinh hoàn tự khỏi.
Triệu chứng và dấu hiệu
Các triệu chứng có thể xuất hiện sau gắng sức một cách đột ngột (nâng đồ nặng), chấn thương, hoặc hoạt động tình dục. Các triệu chứng kết hợp của viêm niệu đạo (đau ở đầu dương vật và có chất tiết niệu đạo) hoặc viêm bàng quang (các triệu chứng kích thích bài tiết) có thể xuất hiện. Đau có thể xuất hiện ở bìu và có thể lan dọc theo thừng tinh hoặc lên đến mạn sườn. Sốt và sưng bìu thường rõ ràng. Trong giai đoạn sớm của bệnh, viêm mào tinh hoàn có thể phân biệt được với tinh hoàn; tuy nhiên, sau đó cả hai đều có thể xuất hiện là một khối to, đau. Tiền liệt tuyến có thể đau khi thăm khám trực tràng.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Công thức máu toàn phần có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Trong các thể lây truyền qua đường tình dục, nhuộm Gram phiến đồ chất tiết âm đạo có thể có giá trị chẩn đoán song cầu khuẩn nội bào bắt màu Gram âm (N. gonorrhoeae). Các bạch cầu không có các vi khuẩn nhìn thấy được trên phiến đồ âm đạo đại diện cho viêm niệu đạo không do lậu cầu, và C. trachomatis là tác nhân có khả năng gây bệnh nhất. Ở các thể không lây truyền qua đường tình dục, xét nghiệm nước tiểu có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau. Cấy nước tiểu sẽ phát hiện được tác nhân gây bệnh.
Chẩn đoán hình ảnh
Siêu âm bìu có thể hỗ trợ trong chẩn đoán nếu việc thăm khám khó khăn do thủy tinh mạc hoặc có các vấn đề còn tồn đọng liên quan đến chẩn đoán.
Chẩn đoán phân biệt
Các khối u nhìn chung gây phì đại tinh hoàn không đau. Xét nghiệm nước tiểu âm tính, và thăm khám mào tinh hoàn bình thường. Siêu âm bìu giúp xác định bệnh học. Xoắn tinh hoàn thường xuất hiện ở nam giới trước tuổi dậy thì nhưng đôi khi gặp cả ở người trưởng thành trẻ tuổi. Khởi phát các triệu chứng đột ngột và xét nghiệm nước tiểu âm tính sẽ ủng hộ chẩn đoán xoắn tinh hoàn hoặc xoắn một tinh hoàn hoặc xoắn các phần phụ của mào tinh hoàn. Dấu hiệu Prehn (nâng bìu trên khớp mu để phát hiện dấu hiệu đau tăng do viêm mào tinh hoàn) có thể hữu ích nhưng không đáng tin cậy.
Điều trị
Nghỉ ngơi trên giường nâng bìu lên là quan trọng trong giai đoạn cấp. Điều trị hướng trực tiếp vào tác nhân gây bệnh đã xác định được. Các thể lây truyền qua đường tình dục được điều trị 10 - 21 ngày bằng các kháng sinh và bạn tình cũng phải được điều trị. Các thể không lây truyền qua đường tình dục thì điều trị trong 21 đến 28 ngày bằng các kháng sinh thích hợp, khi đó mới đảm bảo để đánh giá đường niệu để xác định bệnh lý cơ bản.
Tiên lượng
Điều trị kịp thời thường cho kết quả đáng khích lệ. Điều trị chậm hoặc không thỏa đáng có thể dẫn đến viêm tinh hoàn - mào tinh hoàn, giảm khả năng sinh sản, hoặc hình thành các áp xe.
Bài viết cùng chuyên mục
Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính
Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có thể có các triệu chứng bài tiết kích thích và tắc nghẽn. Các triệu chứng tắc nghẽn bao gồm giảm áp lực và khẩu kính dòng nước tiểu, dòng nước tiểu ngắt quãng, và lưỡng lự đi tiểu.
Xét nghiệm nước tiểu đánh giá bệnh niệu học
Xét nghiệm nước tiểu bằng qụe đo mực nước không có vai trò gì trong việc sàng lọc các bệnh đường tiết niệu ở những người trưởng thành không có triệu chứng ngoại trừ phụ nữ mang thai.
Ung thư tuyến tiền liệt
Hầu hết các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ở nam giới đều không có triệu chứng rõ rệt mà chỉ có các cục khu trú hoặc những vùng rắn cứng.
Viêm thận bể thận cấp
Công thức máu toàn phần cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Xét nghiệm nước tiểu có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau. Các trụ bạch cầu có thể có.
Đau tuyến tiền liệt
Xét nghiệm nước tiểu bình thường sẽ phân biệt được với các quá trình nhiễm trùng cấp tính. Xét nghiệm các chất tiết tuyến tiền liệt được bóp ra sẽ phân biệt được.
Viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn
Bệnh hậu môn có thể có chung một số triệu chứng như viêm tuyến tiền liệt, và khám thực thể sẽ phân biệt được chúng.
Tiếp cận và đánh giá đái máu
Các triệu chứng kích thích bài tiết, vi khuẩn niệu, và kết quả cấy nước tiểu dương tính ở nữ giới hướng đến nhiễm trùng đường tiết niệu.
Viêm bàng quang cấp
Xét nghiệm nước tiểu cho thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu và các mức độ đái máu khác nhau. Mức độ mủ niệu và vi khuẩn niệu không nhất thiết tương quan với mức độ nặng của các triệu chứng.
Khối u tinh hoàn
Trong khi nguyên nhân của ung thư tinh hoàn còn chưa rõ, cả yếu tố bẩm sinh và mắc phải cũng đi kèm với sự phát triển khối u.
Bệnh học ung thư bàng quang
Phân tích nước tiểu sẽ phát hiện huyết niệu ở đa số các trường hợp, đôi khi, có thể kèm theo mủ niệu, vô niệu có thể có ở số lượng nhỏ.
Khối u ở thận
Những khối u thận thường được phát hiện đầu tiên bằng chụp hệ tiết niệu cản quang qua đường tĩnh mạch. Muốn đánh giá sâu hơn thì cần siêu âm để xác định xem u dạng rắn hay u dạng nang.
Viêm tuyến tiền liệt cấp do vi khuẩn
Công thức máu đầy đủ cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Phân tích nước tiểu thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau.
Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn
Theo lập luận thì các nguyên nhân gây bệnh là chlamydia, mycoplasma, ureaplasma, và virus, song không có bằng chứng thực sự nào tồn tại.
Rối loạn chức năng cương cứng nam giới và rối loạn chức năng tình dục
Mất cương cứng có thể do các nguyên nhân động mạch, tĩnh mạch, thần kinh hoặc tâm sinh, Các bệnh đang mắc có thể làm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều cơ chế.
Các nhiễm trùng đường sinh dục tiết niệu
Các nhiễm trùng đầu tiên là các nhiễm trùng lần đầu ở phụ nữ trẻ tuổi, Vi khuẩn niệu không giải quyết được xuất hiện khi đường niệu không được vô trùng trong suốt quá trình điều trị.
Vô sinh nam
Nên phân tích tinh dịch sau 72 giờ kiêng không sinh hoạt tình dục. Nên phân tích mẫu tinh dịch trong vòng 1 giờ sau thu thập. Nồng độ tinh trùng bất thường là < 20 triệu/ml.
Khám thực thể đánh giá bệnh niệu học
Bởi vì bên phải có gan, nên thận phải thấp hơn so với thận trái. Cực dưới của thận phải có thể sờ thấy được ở những bệnh nhân gầy, nhưng thận trái thường không sờ thấy được.
Mất chủ động tiểu tiện
Khai thác bệnh sử và tiền sử là bước quan trọng nhất trong đánh giá mất chủ động tiểu tiện. Nhật ký bài tiết do người bệnh chuẩn bị cũng có thể hỗ trợ cho đánh giá này.
Ung thư niệu quản và bể thận
Những khối u bể thận và niệu quản phải được phân biệt với sỏi, cục máu, hoại tử nhú hoặc viêm, hoặc các tổn thương nhiễm trùng.
Bệnh sỏi tiết niệu
Chế độ ăn và dịch uống có thể là các yếu tố quan trọng trong sự phát triển của sỏi niệu. Người bị bệnh sỏi niệu tái phát được khuyến khích, duy trì một chế độ ăn hạn chế muối và protein.
Đánh giá về bệnh sử niệu học
Đau niệu quản thường là cấp tính và do tắc nghẽn. Sự căng lên đi cùng với tăng nhu động và co thắt cơ trơn của niệu quản có thể dẫn đến hai kiểu đau khác nhau.