- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ niệu học
- Ung thư niệu quản và bể thận
Ung thư niệu quản và bể thận
Những khối u bể thận và niệu quản phải được phân biệt với sỏi, cục máu, hoại tử nhú hoặc viêm, hoặc các tổn thương nhiễm trùng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Ung thư bể thận và niệu quản là hiếm và hay gặp hơn ở người hút thuốc, những người bị bệnh thận Balkan, những người nhiễm Thorotrast (một chất cản quạng với hoạt tính phóng xạ thorium được sử dụng cho tới những năm 1960) hoặc những người có tiền sử lạm dụng các thuốc giảm đau kéo dài. Đa số là carcinpma tế bào chuyển tiếp. Huyết niệu vi thể hoặc đại thể gặp ở hầu hết các bệnh nhân và đau cạnh sườn thứ phát do chảy máu và tắc nghẽn thì ít gặp hơn. Giống như ung thư bàng quang nguyên phát, tế bào học nước tiểu thường dương tính. Các dấu hiệu phổ biến nhất xác định lúc chụp cản quang bể thận bao gồm thiếu hụt đổ đầy trong lòng ống, không nhìn thấy hệ thống ống góp một bên và thận ứ nước. Những khối u bể thận và niệu quản phải được phân biệt với sỏi, cục máu, hoại tử nhú hoặc viêm, hoặc các tổn thương nhiễm trùng. Đôi khi, có thể vào được những tổn thương như vậy để hướng dẫn sinh thiết, đốt bằng tia điện, hoặc cắt qua soi niệu quản. Điều trị dựa trên vị trí, kích thước, độ sâu của sự thậm nhiễm và số lượng các khối u. Hầu hết ung thư như vậy đều được cắt bỏ bằng cắt thận - niệu quản (với các tổn thương ở niệu quản trên và bể thận) hoặc cắt đoạn niệu quản (với các tổn thương ở đầu xa niệu quản), cắt nội soi có thể được chỉ định ở những bệnh nhân có chức năng thận hạn chế và trong xử trí ung thư đường niệu trên, mức độ thấp, tập trung.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm thận bể thận cấp
Công thức máu toàn phần cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Xét nghiệm nước tiểu có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau. Các trụ bạch cầu có thể có.
Bệnh sỏi tiết niệu
Chế độ ăn và dịch uống có thể là các yếu tố quan trọng trong sự phát triển của sỏi niệu. Người bị bệnh sỏi niệu tái phát được khuyến khích, duy trì một chế độ ăn hạn chế muối và protein.
Viêm bàng quang cấp
Xét nghiệm nước tiểu cho thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu và các mức độ đái máu khác nhau. Mức độ mủ niệu và vi khuẩn niệu không nhất thiết tương quan với mức độ nặng của các triệu chứng.
Ung thư tuyến tiền liệt
Hầu hết các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ở nam giới đều không có triệu chứng rõ rệt mà chỉ có các cục khu trú hoặc những vùng rắn cứng.
Viêm tuyến tiền liệt cấp do vi khuẩn
Công thức máu đầy đủ cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Phân tích nước tiểu thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau.
Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính
Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có thể có các triệu chứng bài tiết kích thích và tắc nghẽn. Các triệu chứng tắc nghẽn bao gồm giảm áp lực và khẩu kính dòng nước tiểu, dòng nước tiểu ngắt quãng, và lưỡng lự đi tiểu.
Mất chủ động tiểu tiện
Khai thác bệnh sử và tiền sử là bước quan trọng nhất trong đánh giá mất chủ động tiểu tiện. Nhật ký bài tiết do người bệnh chuẩn bị cũng có thể hỗ trợ cho đánh giá này.
Rối loạn chức năng cương cứng nam giới và rối loạn chức năng tình dục
Mất cương cứng có thể do các nguyên nhân động mạch, tĩnh mạch, thần kinh hoặc tâm sinh, Các bệnh đang mắc có thể làm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều cơ chế.
Khối u tinh hoàn
Trong khi nguyên nhân của ung thư tinh hoàn còn chưa rõ, cả yếu tố bẩm sinh và mắc phải cũng đi kèm với sự phát triển khối u.
Bệnh học ung thư bàng quang
Phân tích nước tiểu sẽ phát hiện huyết niệu ở đa số các trường hợp, đôi khi, có thể kèm theo mủ niệu, vô niệu có thể có ở số lượng nhỏ.
Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn
Theo lập luận thì các nguyên nhân gây bệnh là chlamydia, mycoplasma, ureaplasma, và virus, song không có bằng chứng thực sự nào tồn tại.
Viêm mào tinh hoàn cấp
Siêu âm bìu có thể hỗ trợ trong chẩn đoán nếu việc thăm khám khó khăn do thủy tinh mạc hoặc có các vấn đề còn tồn đọng liên quan đến chẩn đoán.
Khám thực thể đánh giá bệnh niệu học
Bởi vì bên phải có gan, nên thận phải thấp hơn so với thận trái. Cực dưới của thận phải có thể sờ thấy được ở những bệnh nhân gầy, nhưng thận trái thường không sờ thấy được.
Xét nghiệm nước tiểu đánh giá bệnh niệu học
Xét nghiệm nước tiểu bằng qụe đo mực nước không có vai trò gì trong việc sàng lọc các bệnh đường tiết niệu ở những người trưởng thành không có triệu chứng ngoại trừ phụ nữ mang thai.
Đánh giá về bệnh sử niệu học
Đau niệu quản thường là cấp tính và do tắc nghẽn. Sự căng lên đi cùng với tăng nhu động và co thắt cơ trơn của niệu quản có thể dẫn đến hai kiểu đau khác nhau.
Khối u ở thận
Những khối u thận thường được phát hiện đầu tiên bằng chụp hệ tiết niệu cản quang qua đường tĩnh mạch. Muốn đánh giá sâu hơn thì cần siêu âm để xác định xem u dạng rắn hay u dạng nang.
Viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn
Bệnh hậu môn có thể có chung một số triệu chứng như viêm tuyến tiền liệt, và khám thực thể sẽ phân biệt được chúng.
Tiếp cận và đánh giá đái máu
Các triệu chứng kích thích bài tiết, vi khuẩn niệu, và kết quả cấy nước tiểu dương tính ở nữ giới hướng đến nhiễm trùng đường tiết niệu.
Các nhiễm trùng đường sinh dục tiết niệu
Các nhiễm trùng đầu tiên là các nhiễm trùng lần đầu ở phụ nữ trẻ tuổi, Vi khuẩn niệu không giải quyết được xuất hiện khi đường niệu không được vô trùng trong suốt quá trình điều trị.
Đau tuyến tiền liệt
Xét nghiệm nước tiểu bình thường sẽ phân biệt được với các quá trình nhiễm trùng cấp tính. Xét nghiệm các chất tiết tuyến tiền liệt được bóp ra sẽ phân biệt được.
Vô sinh nam
Nên phân tích tinh dịch sau 72 giờ kiêng không sinh hoạt tình dục. Nên phân tích mẫu tinh dịch trong vòng 1 giờ sau thu thập. Nồng độ tinh trùng bất thường là < 20 triệu/ml.