Khối u ở thận
Những khối u thận thường được phát hiện đầu tiên bằng chụp hệ tiết niệu cản quang qua đường tĩnh mạch. Muốn đánh giá sâu hơn thì cần siêu âm để xác định xem u dạng rắn hay u dạng nang.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Carcinoma tế bào thận tiên phát
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Huyết niệu đại thể hoặc vi thể.
Đau vùng cạnh sườn hoặc khối cạnh sườn ở một số bệnh nhân.
Các triệu chứng toàn thân như sốt, sụt cân có thể nổi trội.
Khối u rắn của thận trên chẩn đoán hình ảnh.
Nhận định chung
Carcinoma tế bào thận chiếm khoảng 2,3% các trường hợp ung thư ở người trưởng thành. Ở Mỹ năm 1998 có khoảng 29.900 trường hợp carcinoma được chẩn đoán và 11.600 trường hợp tử vong. Carcinoma tế bào thận có tỷ lệ mắc cao nhất ở tuổi 60 và tỷ lệ nam/nữ là 2/1.
Nguyên nhân còn chưa rõ. Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ môi trường có ý nghĩa duy nhất được xác định. Carcinoma tế bào thận được xác định là có yếu tố gia đình (hội chứng Hippel - Lindau) cũng như đi kèm với bệnh bàng quang liên quan đến thẩm phân máu, nhưng các khối u tự phát lại phổ biến hơn cả.
Carcinoma tế bào thận có nguồn gốc từ các tế bào ống lượn gần. Các loại tế bào khác nhau (rõ ràng, dạng hạt, hình thoi) và các kiểu mô học (tuyến nang, nhú, rắn) được quan sát. Tuy nhiên, các loại tế bào và mẫu mô học không ảnh hưởng tới điều trị. Sự phân loại TNM của Hiệp hội ung thư Mỹ cho ung thư thận được chỉ ra trong bảng.
Các dấu hiệu và triệu chứng
Về mặt tiền sử thì có tới 60% bệnh nhân có huyết niệu đại thể hoặc vi thể, Đau vùng cạnh sườn hoặc khối u vùng bụng được xác định ở khoảng 30% các trường hợp. Tam chứng đau vùng cạnh sườn, huyết niệu và khối u chỉ được phát hiện ở khoảng 10 - 15% các bệnh nhân và thường là dấu hiệu của bệnh quá phát. Các triệu chứng của di căn (ho, đạu xương) xảy ra ở 20 - 30% bệnh nhân. Vì siêu âm và chụp cắt lớp vi tính được sử dụng rộng rãi; các khối u thận có thể được phát hiện một cách tình cờ ở những bệnh nhân không có triệu chứng tiết niệu.
Bảng. Hệ thống phân giai đoạn TNM cho ung thư thận
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Huyết niệu gặp ở 60% các bệnh nhân. Các hội chứng cận u không phải là hiếm gặp trong carcinoma tế bào thận. Bệnh tăng hồng cầu do tăng tạo ra erythropoietin xảy ra ở 5% bệnh nhân, mặc dù thiếu máu là thường gặp hơn; tăng calci huyết có thể gặp tới 10% các bệnh nhân. Hội chứng stauffer là hội chứng rối loạn chức năng gan có thể hồi phục ở bệnh nhân không có di căn.
Chẩn đoán hình ảnh
Những khối u thận thường được phát hiện đầu tiên bằng chụp hệ tiết niệu cản quang qua đường tĩnh mạch. Muốn đánh giá sâu hơn thì cần siêu âm để xác định xem u dạng rắn hay u dạng nang. Chụp cắt lớp vi tính là phương tiện chẩn đoán hình ảnh có giá trị nhất trong carcinoma tế bào thận. Nó có thể xác định đặc tính của khối u và ở các giai đoạn sâu hơn là tổn thương của các hạch bạch huyết vùng, tĩnh mạch thận hoặc tổn thương gan. Nó cũng cung cấp thông tin có giá trị về thận đối bên (hoạt động, khối u hai bên). Chụp X quang ngực loại trừ di căn phổi và nên chụp cắt lớp vi tính hệ thống xương với những u lớn, ở những bệnh nhân có đau xương và tăng phosphatase kiềm. MRI và siêu âm hai chiều Doppler là các phương pháp tuyệt vời để đánh giá sự hiện hữu và lan rộng của khối u gây nghẽn tĩnh mạch thận hoặc tĩnh mạch chủ ở một số bệnh nhân.
Chẩn đoán phân biệt
Các tổn thương dạng rắn ở thận cần nghĩ tới carcinoma tế bào thận cho tới khi chứng minh được nó là loại khác. Các khối u rắn khác bao gồm u mạch cơ mỡ (tỷ trọng mỡ thường có thể quan sát được qua CTscan); ung thư tế bào chuyển tiếp của bể thận (hay ở trung tâm, tổn thương hệ ống góp, tế bào niệu dương tính); các khối u thượng thận (trước trên của thận), u tế bào hạt tuyến mang tai (không thể phân biệt với carcinoma tế bào thận trước phẫu thuật); và các áp xe thận.
Điều trị và tiên lượng
Cắt toàn bộ thận là cách điều trị chính yếu cho carcihcima tế bào thận khu trú. Các khối u giới hạn trong vỏ thận (T1 - T2) cho thấy khả năng sống sót sau 5 năm mà không bị bệnh là 90 - 100%. Những khối u lan rộng ra ngoài vỏ thận (T3 hoặc T4) và những khối u hạch dương tính có tỷ lệ sống sót sau 5 năm mà không có bệnh tương ứng là 50 - 60% và 0 - 15%. Không có liệu pháp hóa chất nào có hiệu quả với carcinoma tế bào thận di căn. Vinblastin là thuốc có hiệu quả nhất, với tỷ lệ đáp ứng một phần khi điều trị ngắn hạn là 15%. Những thay đổi trong đáp ứng sinh học được chú ý nhiều bao gồm interferon alpha và interleukin- 2 với tỷ, lệ đáp ứng tương ứng là 15 - 20% và 15 - 35% đã được ghi nhận. Những đáp ứng có khuynh hướng ngả về các khối u có tỷ trọng thấp, bệnh di căn giới hạn ở phổi và tình trạng tốt. Vì những tỷ lệ đáp ứng thấp này, những thăm dò mới đang được tiến hành với các vaccin u và liệu pháp gen.
Một nhóm nhỏ các bệnh nhân di căn sống sót kéo dài, đó là những bệnh nhân di căn đơn độc có thể cắt bỏ được. Trong nhóm này, cắt toàn bộ thận và cắt khối di căn sẽ đưa đến tỷ lệ sống sót không có bệnh trong 5 năm là 15 - 30%.
Những khối u tiên phát khác ở thận
U tế bào hạt tuyến mang tai (Oncocytoma) chiếm khoảng 3 - 5% những khối u ở thận và không thể phân biệt được với carcinoma tế bào thận bằng tất cả các kỹ thuật ghi hình. Về mặt sinh học của những tổn thương này chưa được xác định rõ. Những khối u này có thể gặp ở những cơ quan khác, bao gồm tuyến thượng thận, tuyến nước bọt, tuyến giáp và cận giáp.
Khối u mạch cơ mỡ là những khối u lành tính hiếm gặp bao gồm mỡ, cơ trơn vả mạch máu. Chúng phổ biến nhất ở những bệnh nhân có xơ hóa củ (thường là nhiều và ở hai bên) hoặc ở những phụ nữ từ trẻ đến trung niên. Chụp cắt lớp vi tính có thể xác định thành phần mỡ để chẩn đoán u mạch cơ mỡ. Những tổn thương không triệu chứng và có đường kính < 5cm thì thường không cần can thiệp gì.
Những khối u thứ phát ở thận
Thận không phải là vị trí hiếm gặp của bệnh di căn. Với các khối u rắn, phổi là vị trí phổ biến nhất (20%), sau đó là vú (10%, dạ dày (10%), và thận đôi bên (10%). U lympho cả Hodgkin và không Hodgkin có thể cũng gây tổn thương thận, dù nó có khuynh hướng là quá trình thâm nhiễm lan tỏa dẫn đến thận to hơn là khối u riêng rẽ.
Bài viết cùng chuyên mục
Đau tuyến tiền liệt
Xét nghiệm nước tiểu bình thường sẽ phân biệt được với các quá trình nhiễm trùng cấp tính. Xét nghiệm các chất tiết tuyến tiền liệt được bóp ra sẽ phân biệt được.
Vô sinh nam
Nên phân tích tinh dịch sau 72 giờ kiêng không sinh hoạt tình dục. Nên phân tích mẫu tinh dịch trong vòng 1 giờ sau thu thập. Nồng độ tinh trùng bất thường là < 20 triệu/ml.
Các nhiễm trùng đường sinh dục tiết niệu
Các nhiễm trùng đầu tiên là các nhiễm trùng lần đầu ở phụ nữ trẻ tuổi, Vi khuẩn niệu không giải quyết được xuất hiện khi đường niệu không được vô trùng trong suốt quá trình điều trị.
Xét nghiệm nước tiểu đánh giá bệnh niệu học
Xét nghiệm nước tiểu bằng qụe đo mực nước không có vai trò gì trong việc sàng lọc các bệnh đường tiết niệu ở những người trưởng thành không có triệu chứng ngoại trừ phụ nữ mang thai.
Đánh giá về bệnh sử niệu học
Đau niệu quản thường là cấp tính và do tắc nghẽn. Sự căng lên đi cùng với tăng nhu động và co thắt cơ trơn của niệu quản có thể dẫn đến hai kiểu đau khác nhau.
Viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn
Bệnh hậu môn có thể có chung một số triệu chứng như viêm tuyến tiền liệt, và khám thực thể sẽ phân biệt được chúng.
Bệnh sỏi tiết niệu
Chế độ ăn và dịch uống có thể là các yếu tố quan trọng trong sự phát triển của sỏi niệu. Người bị bệnh sỏi niệu tái phát được khuyến khích, duy trì một chế độ ăn hạn chế muối và protein.
Viêm thận bể thận cấp
Công thức máu toàn phần cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Xét nghiệm nước tiểu có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau. Các trụ bạch cầu có thể có.
Bệnh học ung thư bàng quang
Phân tích nước tiểu sẽ phát hiện huyết niệu ở đa số các trường hợp, đôi khi, có thể kèm theo mủ niệu, vô niệu có thể có ở số lượng nhỏ.
Tiếp cận và đánh giá đái máu
Các triệu chứng kích thích bài tiết, vi khuẩn niệu, và kết quả cấy nước tiểu dương tính ở nữ giới hướng đến nhiễm trùng đường tiết niệu.
Viêm mào tinh hoàn cấp
Siêu âm bìu có thể hỗ trợ trong chẩn đoán nếu việc thăm khám khó khăn do thủy tinh mạc hoặc có các vấn đề còn tồn đọng liên quan đến chẩn đoán.
Ung thư niệu quản và bể thận
Những khối u bể thận và niệu quản phải được phân biệt với sỏi, cục máu, hoại tử nhú hoặc viêm, hoặc các tổn thương nhiễm trùng.
Khám thực thể đánh giá bệnh niệu học
Bởi vì bên phải có gan, nên thận phải thấp hơn so với thận trái. Cực dưới của thận phải có thể sờ thấy được ở những bệnh nhân gầy, nhưng thận trái thường không sờ thấy được.
Viêm tuyến tiền liệt cấp do vi khuẩn
Công thức máu đầy đủ cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Phân tích nước tiểu thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau.
Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn
Theo lập luận thì các nguyên nhân gây bệnh là chlamydia, mycoplasma, ureaplasma, và virus, song không có bằng chứng thực sự nào tồn tại.
Khối u tinh hoàn
Trong khi nguyên nhân của ung thư tinh hoàn còn chưa rõ, cả yếu tố bẩm sinh và mắc phải cũng đi kèm với sự phát triển khối u.
Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính
Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có thể có các triệu chứng bài tiết kích thích và tắc nghẽn. Các triệu chứng tắc nghẽn bao gồm giảm áp lực và khẩu kính dòng nước tiểu, dòng nước tiểu ngắt quãng, và lưỡng lự đi tiểu.
Mất chủ động tiểu tiện
Khai thác bệnh sử và tiền sử là bước quan trọng nhất trong đánh giá mất chủ động tiểu tiện. Nhật ký bài tiết do người bệnh chuẩn bị cũng có thể hỗ trợ cho đánh giá này.
Ung thư tuyến tiền liệt
Hầu hết các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ở nam giới đều không có triệu chứng rõ rệt mà chỉ có các cục khu trú hoặc những vùng rắn cứng.
Viêm bàng quang cấp
Xét nghiệm nước tiểu cho thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu và các mức độ đái máu khác nhau. Mức độ mủ niệu và vi khuẩn niệu không nhất thiết tương quan với mức độ nặng của các triệu chứng.
Rối loạn chức năng cương cứng nam giới và rối loạn chức năng tình dục
Mất cương cứng có thể do các nguyên nhân động mạch, tĩnh mạch, thần kinh hoặc tâm sinh, Các bệnh đang mắc có thể làm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều cơ chế.