Tự miễn dịch

2017-01-12 05:50 PM

Hoạt động của tế bào T ngăn chặn bị giảm sút dẫn đến sự điều chỉnh đáp ứng miễn dịch bị rối loạn và có thể khởi phát hoạt động quá mức của các cơ chế tự phản ứng khác.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các bệnh tự miễn dịch không thể được giải thích bằng nguyên nhân hay cơ chế đơn độc. Sự tăng nhẹ các tự kháng thể diễn ra bình thường và có thể có vai trò sinh lý trong tương tác tế bào, các lý thuyết chính về việc phát triển các bệnh tự miễn là: (1) phóng thích các kháng nguyên tồn đọng bình thường, (2) sự hiện diện của các clon bất thường, (3) kháng nguyên được phân phối giữa vật chủ và vi cơ quan, (4) tổn thương chức năng tế bào T giúp đỡ hay T ngăn chặn. Tính nhậy cảm di truyền cũng là một quyết định có thể của các bệnh tự miễn. Gần hết các bệnh tự miễn có rất nhiều cơ chế của tự miễn được vận hành và nguyên nhân cơ bản chính xác còn chưa được biết đến.

Tự miễn qua trung gian tế bào

Một vài bệnh tự miễn qua trung gian tế bào T trở nên miễn dịch hóa đặc hiệu với các tổ chức tự thân. Tế bào T giết hay độc tế bào được sinh ra bởi đáp ứng miễn dịch sai lạc này tấn công và làm hư hại các cơ quan đặc hiệu trong sự thiếu vắng của tự kháng thể trong huyết thanh.

Hoạt động của tế bào T ngăn chặn bị giảm sút dẫn đến sự điều chỉnh đáp ứng miễn dịch bị rối loạn và có thể khởi phát hoạt động quá mức của các cơ chế tự phản ứng khác. Bị kịch miễn dịch tong các bệnh đặc hiệu hệ thống (đặc hiệu nhưng ở cơ quan) như bệnh lupút ban đỏ hệ thống có thể là phần nào do cơ chế này.

Tự miễn dịch qua trung gian kháng thể

Nhiễm bệnh tự miễn được chứng tỏ là sự gây ra bởi tự kháng thể mà không có tính tự miễn qua trung gian tế bào. Bệnh thiếu máu tan máu tự miễn giảm tiểu cầu không rõ căn nguyên và hội chứng Goodpasture có vẻ như bị trung gian đơn độc bởi tự kháng thể trực tiếp chống các chất tạo thành màng tế bào tự thân. Trong các bệnh này, kháng thể gắn vào màng tế bào, cố định bổ thể, và phản ứng viêm xảy ra sau đó sẽ hủy hoại nặng tế bào.

Sự hiện diện của kháng thể kháng thụ thể mà nó cạnh tranh với hoặc tạo ra nhiều loại chất đối khảng sinh lý cho các thụ thể tế bào là một cơ chế tự miễn đặc hiệu trong vài bệnh. Trong bệnh Graves (Basedon) các kháng thể đều hiện diện, gắn vào thụ thể TSH của tế bào tuyến giáp và do đó kích thích sự sản xuất hormon tuyến giáp. Trong những trường hợp cá biệt hiếm hơn của đái tháo đường typ I, kháng thể kháng thụ thể insulin gây tình trạng kháng insulin ở các tổ chức đích ngoại biên. Trái lại kháng thể kháng tế bào đảo thường thấy trong đái tháo đường typ I gây suy giảm insulin bằng cách phá hủy các tế bào đảo tụy. Trong bệnh nhược cơ nặng kháng thể kháng thụ thể acetylcholin của điểm tiếp nối thần kinh cơ ức chế sự dẫn truyền thần kinh - cơ và do vậy gây nhược cơ.

Bệnh phúc hợp miễn dịch

Trong nhóm này của bệnh (lupút ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp, một vài thiếu máu huyết tán do thuốc, giảm tiểu cầu) các tổ chức tự thân bị tổn thương như "một người ngoài cuộc vô tội". Tự kháng thể không chống trực tiếp các thành phần tế bào của cơ quan đích mà chống lại hoặc các kháng thể tự nhiên hoặc kháng thể tạo thành gắn một cách không đặc hiệu vào các màng tự thân và cố định bổ thể. Sự gắn và hoạt hóa tiếp theo của các thành phận bổ thể gây một đáp ứng viêm tại chỗ dẫn đến tổn thương tổ chức.

Bài viết cùng chuyên mục

Cấu trúc và chức năng của Globulin miễn dịch

Các gen mã hóa cho các phân tử globulin miễn dịch chuỗi nhẹ và nặng trải qua những sắp xếp lại trong các ADN của tế bào B dẫn đến việc tổng hợp.

Ghép tạng trong lâm sàng

Chỉ định ghép tim khi bệnh tim ở giai đoạn cuối hoàn toàn kháng với điều trị nội khoa, Người cho và người nhận phải được so nghiệm để loại trừ các kháng thể kháng HLA.

Cơ chế tác động của các thuốc ức chế miễn dịch

Cocticosteoid ức chế đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào mạnh hơn là đáp ứng kháng thể. Tế bào T giúp đỡ thường giảm trước tiên do có hiện tượng phân phối lại.

Suy giảm miễn dịch biến thiên thông thường

Nguyên nhân của giảm gammaglobulin máu toàn bộ trong tuyệt đại đa số bệnh nhân suy giảm miễn dịch biến thiên thông thường là một sai lạc của tế bào B nội tại trong sản xuất kháng thể.

Suy giảm miễn dịch thứ phát

Suy giảm miễn dịch, phối hợp với bệnh sarcoid, đặc trưng bởi suy giảm một phần chức năng tế bào T, trong khi chức năng tế bào B bình thường hoặc tăng.

Chẩn đoán các bệnh dị ứng

Thăm khám thực tế sẽ phát hiện dấu hiệu của bệnh cấp tính nếu người bệnh được thăm khám ngay trong thời gian tiếp xúc với dị nguyên.

Suy giảm chọn lọc Globulin miễn dịch A

Đôi khi hội chứng giống ỉa chảy mỡ có thể phối hợp với suy giảm IgA đơn độc. Điều trị bằng globulin miễn dịch có trên thị trường là vô hiệu, vì IgA và IgM chỉ có một lượng nhỏ trong các sản phẩm này.

Sự liên quan giữa kháng nguyên HLA và các bệnh đặc hiệu

Nghiên cứu cho thay phối hợp mạnh nhất là giữa HLA B27 và bệnh nhân viêm cột sống dính khớp mà mọi nhóm dân tộc đều bị nhưng thường là ờ dân Nhật Bản nhiều hơn là dân Cáp ca-zơ.

Các test phát hiện tự kháng thể liên quan với các bệnh tự miễn

Kháng nguyên đã chiết xuất ra và đã làm tinh khiết được cố định vào một hố lõm vi chuẩn độ hay những hạt bằng plastic.

Phân loại các bệnh dị ứng trên lâm sàng

Trong vòng mấy phút sau khi trình diện với dị nguyên, các chất trung gian vận mạch và viêm được hoạt hóa và được phóng thích từ các tế bào bón gây dãn mạch.

Các test miễn dịch tế bào sử dụng trong lâm sàng

Dấu ấn tế bào T bao gồm các kháng nguyên bề mặt được phân lập bằng kháng thể đơn dòng đặc hiệu, Kháng huyết thanh đơn dòng đã được dùng cả trong miễn dịch.

Kiểm soát di truyền của đáp ứng miễn dịch cơ thể người

Trong vùng di truyền xác định phức hợp kháng nguyên ghép chủ yếu, có những gen xác định tính khả năng làm tăng đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.

Những bệnh sản xuất quá mức globulin miễn dịch

Bệnh gamma đơn dòng bao gồm các thể bệnh trong đó có sự tăng sinh mất cân đối của dòng đơn tế bào globulin miễn dịch chuỗi nặng chuỗi nhẹ đồng nhất.

Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS)

Trong AIDS, các miễn dịch cho thấy một suy giảm nặng có chọn lọc chức năng và số lượng lympho bào T cùng với giảm nhẹ số lượng lympho bào B. Người bệnh thường bị vô ứng (anergy).

Các ứng dụng của các test tế bào B và T trong lâm sàng

Tăng lympho bào thứ phát sau nhiễm virus, vi khuẩn thường phối hợp với một tỷ lệ phần trăm bình thường của tế bào B và việc phân phối thường lệ của các lớp globulin miễn dịch trên bề mặt tế bào.

Định tuyp HLA trong chẩn đoán miễn dịch dị ứng

Định typ của lớp kháng nguyên II HLA DR và DQ được tiến hành như đã mô tả trên, trừ lympho D phân lập ra được sử dụng như đích ít hơn là các lympho bào máu.

Các tế bào tham gia miễn dịch của cơ thể người

Các kháng thể đơn dòng của dưới quần thể tế bào T đươc sản xuat bằng cách miễn dịch hóa con vật với tế bào T của người và sau đó trộn tế bào lách súc vật.

Điều trị các bệnh dị ứng

Loại trừ tiếp xúc với dị nguyên sẽ chữa được vấn đề đặc hiệu nhưng nó có thể hoặc không có thể làm giảm tính nhạy cảm miễn dịch cơ bản với dị nguyên này.