- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn miễn dịch và dị ứng
- Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS)
Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS)
Trong AIDS, các miễn dịch cho thấy một suy giảm nặng có chọn lọc chức năng và số lượng lympho bào T cùng với giảm nhẹ số lượng lympho bào B. Người bệnh thường bị vô ứng (anergy).
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
AlDS là nhiễm mạn tính loại virus làm suy giảm miễn dịch (HlV) gây tổn hại đe dọa tế bào T. Ngoài giảm CD4 (tế bào T giúp đỡ) còn có tăng CD8 (tế bào T ngăn chặn/độc tế bào) mà đa số những tế bào này có phenotyp độc tế bào.
Chức năng tế bào B bị tổn thương, do vậy rất nhiều cá thể bị nhiễm HIV bị giảm globulin gamma máu rõ rệt và những bệnh nhân AIDS thiếu đáp ứng bình thường với những kháng nguyên khi gây miễn địch (tiêm chủng). Tự kháng thể và phức hợp miễn dịch lưu hành trong máu đều có. Phần lớn cá thế bị nhiễm có tiến triển dần dần từ khỏe mạnh đến bị bệnh phải trong qua nhiều năm, yếu tố quyết định về miễn dịch của định mệnh lâm sàng ở người bị nhiêm HIV hiện còn chưa được biết.
Trong AIDS, các miễn dịch cho thấy một suy giảm nặng có chọn lọc chức năng và số lượng lympho bào T cùng với giảm nhẹ số lượng lympho bào B. Người bệnh thường bị vô ứng (anergy). Các test in vitro về chức năng tế bào T máu ngoại biên như chức năng đáp ứng tăng sinh với các kháng nguyên và các chất gây phân bào thường bị giảm nặng hoặc không có. Số lượng tuyệt đối lympho bào bị giảm nặng (thường là < 500 tế bào/µl) và tỷ lệ của tế bào T ngăn chặn/độc tế bào thường thấp rõ rệt hơn bình thường. Mặc dù suy yếu tế bào T trong nhiễm HIV là hậu quả của sự hủy hoại tế bào CD4 bởi virus, thì những cơ chế khác làm suy yếu tế bào T và làm mất đáp ứng miễn dịch cũng đều hoạt động. Những thay đổi miễn dịch thấy ở những người huyết thanh dương tính chưa có triệu chứng gì thì thường là không rõ rệt như những bệnh nhân AIDS.
Bài viết cùng chuyên mục
Các test miễn dịch tế bào sử dụng trong lâm sàng
Dấu ấn tế bào T bao gồm các kháng nguyên bề mặt được phân lập bằng kháng thể đơn dòng đặc hiệu, Kháng huyết thanh đơn dòng đã được dùng cả trong miễn dịch.
Các ứng dụng của các test tế bào B và T trong lâm sàng
Tăng lympho bào thứ phát sau nhiễm virus, vi khuẩn thường phối hợp với một tỷ lệ phần trăm bình thường của tế bào B và việc phân phối thường lệ của các lớp globulin miễn dịch trên bề mặt tế bào.
Suy giảm miễn dịch biến thiên thông thường
Nguyên nhân của giảm gammaglobulin máu toàn bộ trong tuyệt đại đa số bệnh nhân suy giảm miễn dịch biến thiên thông thường là một sai lạc của tế bào B nội tại trong sản xuất kháng thể.
Cơ chế tác động của các thuốc ức chế miễn dịch
Cocticosteoid ức chế đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào mạnh hơn là đáp ứng kháng thể. Tế bào T giúp đỡ thường giảm trước tiên do có hiện tượng phân phối lại.
Suy giảm miễn dịch thứ phát
Suy giảm miễn dịch, phối hợp với bệnh sarcoid, đặc trưng bởi suy giảm một phần chức năng tế bào T, trong khi chức năng tế bào B bình thường hoặc tăng.
Sự liên quan giữa kháng nguyên HLA và các bệnh đặc hiệu
Nghiên cứu cho thay phối hợp mạnh nhất là giữa HLA B27 và bệnh nhân viêm cột sống dính khớp mà mọi nhóm dân tộc đều bị nhưng thường là ờ dân Nhật Bản nhiều hơn là dân Cáp ca-zơ.
Điều trị các bệnh dị ứng
Loại trừ tiếp xúc với dị nguyên sẽ chữa được vấn đề đặc hiệu nhưng nó có thể hoặc không có thể làm giảm tính nhạy cảm miễn dịch cơ bản với dị nguyên này.
Cấu trúc và chức năng của Globulin miễn dịch
Các gen mã hóa cho các phân tử globulin miễn dịch chuỗi nhẹ và nặng trải qua những sắp xếp lại trong các ADN của tế bào B dẫn đến việc tổng hợp.
Các test phát hiện tự kháng thể liên quan với các bệnh tự miễn
Kháng nguyên đã chiết xuất ra và đã làm tinh khiết được cố định vào một hố lõm vi chuẩn độ hay những hạt bằng plastic.
Tự miễn dịch
Hoạt động của tế bào T ngăn chặn bị giảm sút dẫn đến sự điều chỉnh đáp ứng miễn dịch bị rối loạn và có thể khởi phát hoạt động quá mức của các cơ chế tự phản ứng khác.
Các tế bào tham gia miễn dịch của cơ thể người
Các kháng thể đơn dòng của dưới quần thể tế bào T đươc sản xuat bằng cách miễn dịch hóa con vật với tế bào T của người và sau đó trộn tế bào lách súc vật.
Định tuyp HLA trong chẩn đoán miễn dịch dị ứng
Định typ của lớp kháng nguyên II HLA DR và DQ được tiến hành như đã mô tả trên, trừ lympho D phân lập ra được sử dụng như đích ít hơn là các lympho bào máu.
Ghép tạng trong lâm sàng
Chỉ định ghép tim khi bệnh tim ở giai đoạn cuối hoàn toàn kháng với điều trị nội khoa, Người cho và người nhận phải được so nghiệm để loại trừ các kháng thể kháng HLA.
Phân loại các bệnh dị ứng trên lâm sàng
Trong vòng mấy phút sau khi trình diện với dị nguyên, các chất trung gian vận mạch và viêm được hoạt hóa và được phóng thích từ các tế bào bón gây dãn mạch.
Suy giảm chọn lọc Globulin miễn dịch A
Đôi khi hội chứng giống ỉa chảy mỡ có thể phối hợp với suy giảm IgA đơn độc. Điều trị bằng globulin miễn dịch có trên thị trường là vô hiệu, vì IgA và IgM chỉ có một lượng nhỏ trong các sản phẩm này.
Kiểm soát di truyền của đáp ứng miễn dịch cơ thể người
Trong vùng di truyền xác định phức hợp kháng nguyên ghép chủ yếu, có những gen xác định tính khả năng làm tăng đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.
Những bệnh sản xuất quá mức globulin miễn dịch
Bệnh gamma đơn dòng bao gồm các thể bệnh trong đó có sự tăng sinh mất cân đối của dòng đơn tế bào globulin miễn dịch chuỗi nặng chuỗi nhẹ đồng nhất.
Chẩn đoán các bệnh dị ứng
Thăm khám thực tế sẽ phát hiện dấu hiệu của bệnh cấp tính nếu người bệnh được thăm khám ngay trong thời gian tiếp xúc với dị nguyên.