- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn miễn dịch và dị ứng
- Các test phát hiện tự kháng thể liên quan với các bệnh tự miễn
Các test phát hiện tự kháng thể liên quan với các bệnh tự miễn
Kháng nguyên đã chiết xuất ra và đã làm tinh khiết được cố định vào một hố lõm vi chuẩn độ hay những hạt bằng plastic.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các xét nghiệm tìm tự kháng thể cũng tương tự như những xét nghiệm phát hiện kháng thể chống kháng nguyên lạ. Có 4 phương pháp thường được áp dụng trình bày dưới đây.
Rất nhiều tự kháng thể là không đặc hiệu cho một thể bệnh nào đó (như kháng thể kháng nhân, yếu tố dạng thấp). Các test cho những tự kháng thể gần đây nhất rất hay được dùng khi chẩn đoán lâm sàng không chắc chắn trong đó một kết quả âm tính làm cho chẩn đoán của một vài bệnh tự miễn không được chắc chắn. Thí dụ một test kháng thể - kháng nhân âm tính làm cho chẩn đoán bệnh lupút ban đỏ hệ thống không được chắc chắn vì kháng thể này thấy trong huyết thanh của hơn 95% bệnh nhân bị lupút.
Ngưng kết kháng nguyên bề mặt hồng cầu
Hồng cầu (của người, cừu) được ủ với acid tannic hay các hóa chất khác làm cho bề mật tế bào trở nên dính. Sau đó hồng cầu được ủ với kháng nguyên đặc hiệu tinh khiết (như thyroglobulin) và kháng nguyên này được hấp thu trên bề mặt tế bào. Tế bào phủ kháng nguyên lơ lửng trong huyết thanh bệnh nhân và kháng thể được phát hiện bằng phản ứng ngưng kết hồng cầu, các latex phủ kháng nguyên được thay thế cho hồng cầu trong các test cố định latex.
Nghiệm pháp miễn dịch liên kết men (Enzyme Linked – immunoassays - ELISA)
Kháng thể của nhiều kháng nguyên tổ chức khác nhau có thể được phát hiện dễ dàng bằng test ELISA. Kháng nguyên đã chiết xuất ra và đã làm tinh khiết được cố định vào một hố lõm vi chuẩn độ hay những hạt bằng plastic. Huyết thanh bệnh nhân được cho thêm vào và các protein dư thừa đã được loại bỏ bằng rửa và ly tâm. Một kháng thể thứ hai hợp với một enzym (như alkalin phosphatase) được cho thêm vào, cơ chất của enzym lúc ấy đựợc cho vào và màu sắc tạo thành sẽ được đo bằng quang phổ kế. Test này cũng có thể được áp dụng để phát hiện kháng nguyên bằng cách để kháng thể trên bề mặt đĩa plastic. Nghiệm pháp ELISA được áp dụng rất rộng rãi trong xét nghiêm lâm sàng.
Soi hiển vi miễn dịch huỳnh quang
Kỹ thuật thường rất hay dùng để phát hiện kháng thể kháng nhân. Một cắt đoạn lạnh của gan chuột hay các cơ chất khác được cắt và đặt trên lam kính. Huyết thanh bệnh nhân đặt trên lớp cắt đoạn và được rửa kỹ. Để lên đo globulin miễn dịch của thỏ chống người liên kết với chất huỳnh quang (fluorescein) và rửa sạch. Kháng thể kháng nhân được gắn một cách đặc hiệu vào nhân và chất liên kết huỳnh quang gắn vào kháng thể người. Tính huỳnh quang của nhân quan sát được bằng kính hiển vi huỳnh quang chỉ rõ test dương tỉnh.
Cố định bố thể
Kháng nguyên đặc hiệu, huyết thanh chưa biết cần xét nghiệm và bổ thể cũng tác động vào nhau. Hồng cầu cừu được phủ bằng kháng thể kháng hồng cầu cừu sau đó được cho thêm vào hỗn hợp phản ứng trên trong 30 phút ở 370C. Hiện tượng tan hồng cầu cừu chỉ rõ là có bổ thể (dính vào bề mặt hồng cầu cừu). Thiếu vắng hiện tượng tan hồng cầu cừu cho thấy bổ thể đã được cố định bởi tương tác của kháng thể trong huyết thanh với kháng nguyên đặc hiệu. Thiếu vắng hiện tượng tan là một test dương tính chứng tỏ sự hiện diện kháng thể đặc hiệu trong huyết thanh.
Điều trị các bệnh tự miễn
Việc điều trị các bệnh tự miễn gồm nhiều cách tiếp cận khác nhau. Loại trừ việc sản sinh tự kháng thế bằng các corticosteroid và các chất độc tế bào thường là hiệu nghiệm. Các thuốc chống viêm như aspirin. Các chống viêm không phải steroid, colchicin và các corticosteroid giải toả sự nguy hại tổ chức khỏi phức hợp miễn dịch. Thay huyết tương (plasmapheresis) để loại bỏ các tự kháng thể độc hại và các phức hợp miễn dịch lưu hành liên quan với các thuốc độc tế bào thường hay được sử dụng trong một số bệnh. Tất cả những mô hình này đều trực tiếp trên các triệu chứng vì những nguyên nhân cơ bản của các rối loạn này vẫn còn chưa rõ.
Bài viết cùng chuyên mục
Chẩn đoán các bệnh dị ứng
Thăm khám thực tế sẽ phát hiện dấu hiệu của bệnh cấp tính nếu người bệnh được thăm khám ngay trong thời gian tiếp xúc với dị nguyên.
Điều trị các bệnh dị ứng
Loại trừ tiếp xúc với dị nguyên sẽ chữa được vấn đề đặc hiệu nhưng nó có thể hoặc không có thể làm giảm tính nhạy cảm miễn dịch cơ bản với dị nguyên này.
Cơ chế tác động của các thuốc ức chế miễn dịch
Cocticosteoid ức chế đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào mạnh hơn là đáp ứng kháng thể. Tế bào T giúp đỡ thường giảm trước tiên do có hiện tượng phân phối lại.
Suy giảm miễn dịch biến thiên thông thường
Nguyên nhân của giảm gammaglobulin máu toàn bộ trong tuyệt đại đa số bệnh nhân suy giảm miễn dịch biến thiên thông thường là một sai lạc của tế bào B nội tại trong sản xuất kháng thể.
Định tuyp HLA trong chẩn đoán miễn dịch dị ứng
Định typ của lớp kháng nguyên II HLA DR và DQ được tiến hành như đã mô tả trên, trừ lympho D phân lập ra được sử dụng như đích ít hơn là các lympho bào máu.
Sự liên quan giữa kháng nguyên HLA và các bệnh đặc hiệu
Nghiên cứu cho thay phối hợp mạnh nhất là giữa HLA B27 và bệnh nhân viêm cột sống dính khớp mà mọi nhóm dân tộc đều bị nhưng thường là ờ dân Nhật Bản nhiều hơn là dân Cáp ca-zơ.
Cấu trúc và chức năng của Globulin miễn dịch
Các gen mã hóa cho các phân tử globulin miễn dịch chuỗi nhẹ và nặng trải qua những sắp xếp lại trong các ADN của tế bào B dẫn đến việc tổng hợp.
Những bệnh sản xuất quá mức globulin miễn dịch
Bệnh gamma đơn dòng bao gồm các thể bệnh trong đó có sự tăng sinh mất cân đối của dòng đơn tế bào globulin miễn dịch chuỗi nặng chuỗi nhẹ đồng nhất.
Tự miễn dịch
Hoạt động của tế bào T ngăn chặn bị giảm sút dẫn đến sự điều chỉnh đáp ứng miễn dịch bị rối loạn và có thể khởi phát hoạt động quá mức của các cơ chế tự phản ứng khác.
Phân loại các bệnh dị ứng trên lâm sàng
Trong vòng mấy phút sau khi trình diện với dị nguyên, các chất trung gian vận mạch và viêm được hoạt hóa và được phóng thích từ các tế bào bón gây dãn mạch.
Ghép tạng trong lâm sàng
Chỉ định ghép tim khi bệnh tim ở giai đoạn cuối hoàn toàn kháng với điều trị nội khoa, Người cho và người nhận phải được so nghiệm để loại trừ các kháng thể kháng HLA.
Các ứng dụng của các test tế bào B và T trong lâm sàng
Tăng lympho bào thứ phát sau nhiễm virus, vi khuẩn thường phối hợp với một tỷ lệ phần trăm bình thường của tế bào B và việc phân phối thường lệ của các lớp globulin miễn dịch trên bề mặt tế bào.
Kiểm soát di truyền của đáp ứng miễn dịch cơ thể người
Trong vùng di truyền xác định phức hợp kháng nguyên ghép chủ yếu, có những gen xác định tính khả năng làm tăng đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.
Suy giảm miễn dịch thứ phát
Suy giảm miễn dịch, phối hợp với bệnh sarcoid, đặc trưng bởi suy giảm một phần chức năng tế bào T, trong khi chức năng tế bào B bình thường hoặc tăng.
Các test miễn dịch tế bào sử dụng trong lâm sàng
Dấu ấn tế bào T bao gồm các kháng nguyên bề mặt được phân lập bằng kháng thể đơn dòng đặc hiệu, Kháng huyết thanh đơn dòng đã được dùng cả trong miễn dịch.
Suy giảm chọn lọc Globulin miễn dịch A
Đôi khi hội chứng giống ỉa chảy mỡ có thể phối hợp với suy giảm IgA đơn độc. Điều trị bằng globulin miễn dịch có trên thị trường là vô hiệu, vì IgA và IgM chỉ có một lượng nhỏ trong các sản phẩm này.
Các tế bào tham gia miễn dịch của cơ thể người
Các kháng thể đơn dòng của dưới quần thể tế bào T đươc sản xuat bằng cách miễn dịch hóa con vật với tế bào T của người và sau đó trộn tế bào lách súc vật.
Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS)
Trong AIDS, các miễn dịch cho thấy một suy giảm nặng có chọn lọc chức năng và số lượng lympho bào T cùng với giảm nhẹ số lượng lympho bào B. Người bệnh thường bị vô ứng (anergy).