Tím và đỏ đau đầu chi

2016-11-07 04:15 PM

Đỏ đau đầu chi là một rối loạn giãn mạch kịch phát cả hai bên, nguyên nhân chưa được biết. Đỏ đau đầu chi tự phát xuất hiện trên người khoẻ mạnh bình thường, hiếm khi ở trẻ em, ở nam giới và nữ giới là tương đương.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tím đầu chi

Tím đầu chi là tình trạng tím cân đối hai bên không thường gặp ở da bàn tay và bàn chân và ở mức độ ít hơn, ở cẳng tay và cẳng chân. Nó liên quan với co thắt động mạch kèm giãn đám rối tĩnh mạch dưới nhú ở da qua đó mà dòng máu bị khử oxy lưu chuyển chậm. Tình trạng tồi hơn khi thời tiết lạnh, nhưng cũng không mất hoàn toàn trong mùa ấm. Nó xuất hiện ở cả hai giới tính, thường gặp nhất ở thanh thiếu niên và độ 20 tuổi, và thường tiến triển tăng lên theo tuổi hoặc khi có thai. Nó có tính chất lạnh, ướt, phù nhẹ, và da tím ở một số vùng. Đau, rối loạn dinh dưỡng, và tàn tật không xảy ra, và mạch ngoại biên bình thường. Những bệnh nhân này vì vậy có thể yên lòng và được khuyên nên mặc ấm khi trời lạnh.

Đỏ đau đầu chi

Đỏ đau đầu chi là một rối loạn giãn mạch kịch phát cả hai bên, nguyên nhân chưa được biết. Đỏ đau đầu chi tự phát xuất hiện trên người khoẻ mạnh bình thường, hiếm khi ở trẻ em, ở nam giới và nữ giới là tương đương. Thứ phát có thể thấy trên bệnh nhân tăng hồng cầu tủy xương, tăng huyết áp, bệnh gút và bệnh thần kinh.

Triệu chứng chính là đau cháy bỏng cả hai bên và kéo dài vài phút đến hàng giờ, gần như vùng rất hạn chế đầu tiên là ở gan bàn tay hoặc gan bàn chân, và theo tiến triển của bệnh sẽ lan đến toàn bộ các chi. Nó xuất hiện khi một kích thích làm giãn mạch (như khi gắng sức, môi trường ấm), đặc biệt về đêm khi chi được ủ ấm dưới chăn đệm. Đỏ và tím cũng như nóng có thể nhận thấy. Có thể hết bằng cách làm mát bộ phận bị ảnh hưởng và nâng cao chi.

Không thấy biểu hiện nào ở giữa các đợt. Khi xuất hiện các đợt nhận thấy nóng và đỏ phối hợp với đau điển hình. Nhiệt độ da và mạch tăng, và các vùng có thể nhiều mồ hôi.

Trong đỏ đau đầu chi, aspirin 650mg cứ 4 - 6 giờ/lần, có thể giảm nhiều. Bệnh nhân nên tránh môi trường ấm. Ở trường hợp nặng, nếu điều trị nội khoa thất bại, có thể cần thiết cắt thần kinh ngoại vi để giảm đau.

Đỏ đau đầu chi ngẫu phát là dạng không thay đổi lành tính.

Bài viết cùng chuyên mục

Giãn tĩnh mạch

Giãn, nổi chằng chịt, kéo dài tĩnh mạch dưới da ở đùi và chân nói chung nhìn thấy rõ khi đứng, tuy nhiên ở bệnh nhân béo phì có thể cần thiết phải sờ để phát hiện biểu hiện và vị trí.

Tắc động mạch cẳng chân và bàn chân

Toàn bộ các biểu hiện có thể có của bệnh mạch ở cẳng chân và bàn chân không thể mô tả ở đây, chỉ có thể trình bày những khía cạnh lâm sàng chủ yếu có giá trị ở những bệnh nhân này.

Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch nông

Bệnh nhân thường đau âm ỉ ở vùng tĩnh mạch bị bệnh. Dấu hiệu tại chỗ bao gốm xơ cứng, đỏ, và nhạy cảm đau dọc theo tĩnh mạch. Tiến trình này có thể tại chỗ, hoặc có thể ở hầu hết tĩnh mạch hiển dài và các nhánh của nó.

Phình tách động mạch chủ

Máu lách vào thành động mạch chủ, gây tách động mạch chủ. Chỗ tách nói chung bắt đầu từ đoạn gốc động mạch chủ ngay trên van động mạch chủ hoặc đầu còn lại ở chỗ phân nhánh động mạch dưới đòn trái.

Bệnh động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường

Biểu hiện thần kinh của đái tháo đường với giảm hoặc mất nhận cảm của ngón chân và bàn chân có thể có, đưa đến tổn thương hoặc đê doạ loét mà có thể không để ý bởi vì không có đau.

Phù bạch huyết

Đoạn viêm cấp hoặc mạn có thể cùng thêm vào, với tình trạng ứ trệ và xơ hóa tăng lên. Kết quả là chân sưng to, da và tổ chức dưới da xơ hóa và dày rõ và giảm các mô mỡ.

Phình động mạch ngoại vi

Phần lớn các loại khác của phình mạch ngoại vi là ở động mạch đùi. Hầu hết tất cả là xơ vữa động mạch và xuất hiện trên nam giới, thường bị cả hai bên.

Bệnh nghẽn động mạch do Cholesterol

Ở vài bệnh nhân xơ vữa động mạch nặng gồm cả động mạch chủ và các nhánh của nó, dễ dàng nhận thấy một hội chứng do các vi nghẽn mạch từ các mảng xơ vữa.

Phình động mạch chủ bụng

Phình ở đoạn động mạch chủ ở trên ít gặp hơn. Đường kính của động mạch chủ dưới chỗ phân nhánh động mạch thận bình thường là 2 cm, khi đường kính vượt quấ 4 cm là nghi ngờ phình mạch.

Thiểu năng tĩnh mạch mạn tính

Suy tim ứ trệ và bệnh nhân mạn tính có thể gây phù cả hai bên cẳng chân, nhưng nói chung nó có những biểu hiện về lâm sàng và xét nghiệm của bệnh thận và tim.

Phình động mạch chủ ngực

Nếu nó có đi kèm bệnh van động mạch chủ, thay động mạch chủ là cần thiết, cũng có thể có chỉ định tái lập lại động mạch vành họặc cầu nối chủ vành.

Hạ huyết áp và sốc

Sốc xuất hiện khi tuần hoàn máu động mạch không đủ cung cấp cho nhu cầu chuyển hóa của mô. Điều trị phải hướng đến cả chống sốc và điều trị nguyên nhân.

Bệnh raynaud và hiện tượng raynaud

Bệnh Raynaud hoặc hiện tượng Raynaud có tính chất xuất hiện từng đợt trắng hoặc tím hoặc trắng sau đó là tím ở ngón tay (hiếm khi ngón chân), xuất hiện khi lạnh hoặc khi xúc động.

Viêm mạch bạch huyết và viêm hạch bạch huyết

Viêm mạch bạch huyết có thể nhầm với viêm tĩnh mạch huyết khối nông, nhưng phản ứng ban đỏ đi kèm với huyết khối thường nằm trên nền cứng của phản ứng viêm ở tại hoặc xung quanh tĩnh mạch có huyết khối.

Tắc mạch não

Tai biến mạch máu não thoáng qua có thể là biểu hiện sớm nhất của loét hoặc hẹp động mạch. Nó thường chỉ kéo dài trong vài phút nhưng có thể tái diễn trong 24 giờ.

Bệnh học loạn dưỡng giao cảm phản xạ

Ở giai đoạn sớm, đau, nhạy cảm với đau, tăng cảm có thể đúng ở vị trí vùng tổn thương, và chi có thể ấm, khô, lồi, và đỏ hoặc tím nhẹ, chi được giữ ở vị trí cố định bởi những khối cơ.

Tắc động mạch huyết khối cấp

Tắc động mạch không hoàn toàn, mạn tính thuờng là do có thiết lập được tuần hoàn bàng hệ, và lưu lượng máu sẽ tăng qua tuần hoàn bàng hệ một khi có tắc tuần hoàn.

Tắc động mạch đùi khoeo

Khập khiễng cách hồi thấy ở bắp chân và bàn chân. Teo riêng biệt phần thấp cẳng chân và bàn chân, với rụng lông và teo da và tổ chức dưới da, và giảm kích thước cơ.

Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch sâu

Tiền sử bị suy tim ứ trệ, mới phẫu thuật, khối u, dùng thuốc tránh thai đường uống, hoặc giãn tĩnh mạch; không hoạt động kéo dài cũng có thể là tiền tố bị bệnh.

Tắc tĩnh mạch chủ trên

Biểu hiện của triệu chứng thường cấp hoặc bán cấp, triệu chứng bao gồm sưng nề ở cổ, mặt, đau đầu, chóng mặt, rối loạn thị giác, trạng thái sững sờ, hoặc ngất.

Bệnh xơ vữa động mạch có tắc

Tắc động mạch chủ và các nhánh của nó là nguyên nhân thường gặp gây ra tàn tật. Nó cũng là một xác nhận về tỷ lệ tử vong của bệnh nhân tim mạch và những cuộc mổ mà họ trải qua.

Viêm động mạch tự phát Takayasu: bệnh vô mạch

Bệnh vô mạch phải được phân biệt với các tổn thương mạch ở quai động mạch chủ do xơ vữa, dù rằng do xơ vữa ở cả hai chi đưâi có biểu hiện khác nhau. Về mô học, tổn thương động mạch phân biệt với viêm động mạch tế bào khổng lồ.

Thiểu năng động mạch nội tạng

Đột ngột xuất hiện đau thắt bụng liên tục hoặc như bó chặt ở thượng vị và quanh rốn phối hợp với thấy rất ít hoặc không có gì qua khám bụng và thường bạch cầu tăng cao gọi là một trong sự cố của hệ mạc treo tràng trên.

Mạng xanh tím hình lưới trên da

Mạng xanh tím hình lưới phần lớn biểu hiện ở đùi và cẳng tay và có thể ở phía dưới bụng, phần lớn nó đước báo trước khi trời lạnh. Màu sắc có thể thay đổi thành màu hơi đỏ khi thời tiết ấm nhưng không phải biến mất hoàn toàn.

Viêm mạch huyết khối tắc nghẽn: bệnh buerger

Bệnh Buerger là một quá trình từng đợt từng đoạn bị nhiễm khuẩn và huyết khối ở động mạch và tĩnh mạch, chủ yếu ở chân. Nguyên nhân chưa được biết.