Tắc mạch não

2016-11-06 04:08 PM

Tai biến mạch máu não thoáng qua có thể là biểu hiện sớm nhất của loét hoặc hẹp động mạch. Nó thường chỉ kéo dài trong vài phút nhưng có thể tái diễn trong 24 giờ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Xơ vữa động mạch là nguyên nhân gây ra hầu hết các bệnh động mạch. Tỷ lệ bệnh này tăng cùng với tuổi; dù rằng biểu hiện của bệnh có thể xuất hiện ở tuổi tứ tuần, nhưng khị trên 40 tuổi (đặc biệt nam giới) hầu hết thường bị nhiễm bệnh. Yếu tố nguy cơ gồm tăng cholerterol máu, đái tháo đường, hút thuốc lá và tăng huyết áp. Xơ vữa động mạch có xu hướng là một bệnh toàn thân với mức độ nào đó bao gồm tất cả các động mạch lớn, nhưng nó chỉ biểu hiện trên lâm sàng, khi tác động nặng nề vào một số hạn chế các động mạch. Hẹp và tắc lòng động mạch là biểu hiện thường gặp nhất của bệnh, nhưng thành động mạch suy yếu do mất elastin và collagen, kết quả làm giãn phình mạch cũng biểu hiện, và cả hai hậu quả này có thể biểu hiện trên cùng một cá thể. Các bệnh động mạch ít gặp hơn bao gồm viêm động mạch (cả động mạch lớn và nhỏ), viêm mạch tạo huyết khối nghẽn (bệnh Buerger), loạn sản xơ của động mạch nội tạng, viêm động mạch chủ do giang mai, và viêm động mạch lan toả.

Mặc dù mệt mỏi hoặc hoa mắt, chóng mặt, nhìn mờ hoặc đột ngột liệt hoàn toàn nửa người có thể do các nguyên nhân khác nhau, nhưng tắc và loét của xơ vữa động mạch được thấy nhiều. Tổn thương một đoạn hoặc nhiều đoạn thường ở ngoài sọ và biểu hiện hội chứng tai biến mạch não do thiếu máu gặp ở trên một nửa số trường hợp. Vùng sọ thường bao gồm (1) chỗ phân nhánh động mạch cảnh gốc, gồm cả nguyên uỷ của động mạch cảnh ngoài và cảnh trong (xấp xỉ 90%); (2) nguyên uỷ của động mạch đốt sống và (3) đoạn ngực của các nhánh ở quai động mạch chủ.

Triệu chứng

Tai biến mạch máu não thoáng qua có thể là biểu hiện sớm nhất của loét hoặc hẹp động mạch. Nó thường chỉ kéo dài trong vài phút nhưng có thể tái diễn trong 24 giờ. Hẹp động mạch cảnh rõ có giảm lưu lượng máu tạm thời đến não hoặc những mảng loet tạo vi huyết khối từ chỗ loết ở động mạch cảnh đến não hoặc động mạch võng mạc cùng bền là nguyên nhân gây ra nhiều tai biến mạch máu thoáng qua và có thể là biểu hiện đầu tiên của tai biến thực sự ở một nửa số bệnh nhân này. Biểu hiện kinh điển của nó gồm có yếu nửa người bên đối diện hoặc thay đổi nhận cảm, thay đổi giọng nói và rối loạn thị giác (thường mất thị giác thoáng qua toàn phần hoặc một phần ở mắt cùng bên). Tai biến mậch não ở động mạch đốt sông còn có đặc điểm các triệu chứng ở não và thân não, bao gồm mất vận ngôn, song thị, chóng mặt, mất thăng bằng và liệt nhẹ nửa người hoặc một phần tư người.

Chóng mặt, mất thăng bằng, đặc biệt là khi thay đổi tư thế nhanh, không phải là triệu chứng đặc hiệu và thường là do hạ huyết áp tư thế hơn là do những vân đề về đốt sống - nền. Những triệu chứng thần kinh không điển hình hoặc thay đổi nhân cách là triệu chứng hiếm gặp của thiếu máu não.

Dấu hiệu

Tiếng đập ở cổ, mạch yếu hoặc mất ở cổ hoặc tay, và huyết áp chênh lệch giữa hai tay trên 10 mmHg có thể xác định tắc ở động mạch cánh tay đầu. Dấu hiệu rõ hơn tiếng đập của động mạch cánh tay đầu là một âm cao, sắc nét, lan từ vùng cổ bên đến góc hàm (hàm trên chỗ phân nhánh động mạch cảnh chung), nhưng nếu hẹp đến 70% hoặc hờn nữa và vì vậy giảm lưu lượng máu qua đây nên chỉ có rất ít bệnh nhân có tiếng đập này. Tiếng thổi trong hẹp động mạch chủ có thể nghe thấy như tiếng đập qua động mạch cảnh và dưới đòn; khi không có tiếng thổi của tim, tiếng đập nói chung là bệnh ở những động mạch này. Tiếng đập thường biểu hiện không có triệu chứng, và không có tiếng đập cũng không thể loại trừ khả năng của hẹp động mạch cảnh, vì vậy nghe tiếng đập ở động mạch cảnh thì không đủ nhậy và không đủ tính đặc hiệu để thay đổi chẩn đoán ở những nhóm bệnh nhân này. Những vi huyết khối có thể từ những vết loét ở động mạch đến não mà không có hẹp hoặc tiếng đập, đặc biệt nếu loét là lớn. Chỉ có động mạch cảnh gốc và động mạch thái dương ngoài là có thể cảm thấy chính xác, còn động mạch cảnh trong thường không thể sờ thấy được mạch.

Xét nghiệm bổ trợ

Xét nghiệm chẩn đoán của hệ mạch não gồm cả hai: xâm nhập và không xâm nhập. Trước đây siêu âm duplex khi có thể là xét nghiệm được lựa chọn. Trong siêu âm duplex, cả hai kỹ thuật siêu âm được sử dụng phối hợp, và thày thuốc được cung cấp những thông tin cả về giải phẫu và sinh lý; thực sự, mảng loét chảy máu vào tổn thương xơ vữa và các bất thường khác có thể thấy ở hình ảnh so sánh với hình ảnh chụp mạch. Kết quả của những xét nghiệm phối hợp này có tính đặc hiệu và độ nhậy cao, nó hơn hẳn những kỹ thuật không xâm nhập hiện có khác. Thêm vào đó, mức độ huyết động của hẹp có thể được xác định một cách chính xác. Khi siêu âm duplex không có giá trị, siêu âm Doppler sẽ đưa ra những thông tin bổ ích hơn, dù những thông tin thu được chỉ tập trung chính vào sự thay đổi dòng máu khi có hẹp. siêu âm Doppler không nhậy cao như siêu âm duplex nhưng nó có thể so sánh về tính đặc hiệu. Khi phối hợp với những thông tin trực tiếp thu nhận qua siêu âm Doppler quanh ổ mắt mà tìm thay tuần hoàn bàng hệ ở tuần hoắn quanh ổ mắt thì tính nhậy của nó có thể tăng lên. Tuy nhiên, siêu âm Doppler không thể nhận biết được những bất thường về giải phẫu một cách đáng tin cậy bằng siêu âm duplex.

Hình ảnh thu được của chụp mạch não xác định vị trí và mức độ của hẹp và mảng loét, biểu hiện của tắc động mạch, và tuần hoàn bàng hệ.

Điều trị nội khoa

Tai biến mạch não cấp, phẩn lớn các tiến triển tai biến, và các biểu hiện thẩn kinh chính đều được điều trị nội khoa như bàn luận ở bài riêng. Bệnh nhân với tai biến mạch não thoáng qua có thể điều trị bằng thuốc chông ngưng kết tiểu cạụ (aspirin 100 - 325 mg/ngày) hoặc bằng thuốc chống đông máu đường uống, dù rằng giờ đây chỉ có vài bằng chứng cho thấy điều trị là an toàn và có hiệu quả hơn so với các bằng chứng hiện nay, đặc biệt ở nam giới.

Điều trị ngoại khoa

Cắt bỏ màng trong động mạch cảnh, khi được chuyên gia có kinh nghiệm mổ tốt, có thể có giá trị tốt hơn trong thiếu máu não thoáng qua. Nó là hiệu quả nhất khi triệu chứng là đặc điểm của thiếu máu não và đặc biệt là khi phẫu thuật viên mạch máu mổ cắt bỏ màng trong động mạch cảnh mà chỉ có tỷ lệ biến chứng tử vong ít hơn 3%. Thày thuốc chăm sóc sức khoẻ ban đầu bắt buộc phải biết những thông tin này trước khi chuyển bệnh nhân, vì thậm chí những nguy cơ tăng lên ít cũng có thể ảnh hưởng đến tiên lượng

Những tranh cãi như có nên đề nghị phẫu thuật ở những bệnh nhân không có triệu chứng tiếng đập ở động mạch cảnh. Nhiều phẫu thuật viên cho rằng với sự tăng khả năng đánh giá hẹp của các xét nghiệm không xâm nhập nó có thể dễ dàng nhận biết bệnh nhân bị hẹp nhiều mà theo lý thuyết thì mổ cắt màng trong động mạch cảnh dự phòng sẽ hữu ích. Tuy nhiên, nguy cơ tai hiến mạch não ở bệnh nhân không có tiếng đập ở động mạch cảnh mà không điều trị có thể ít hơn là nguy cơ của cả chụp động mạch cảnh và mổ để ngăn tai biến ở những bệnh nhân này. Khoảng 2% bệnh nhân có tiếng đập bị tai biến trong một năm; xấp xỉ 3% nếu hẹp trên 75%. Vì vậy, nguy cơ gây tai biến từ chụp mạch và phẫu thuật có thể ít hơn 3% nếu mổ được đề nghị trên tất cả bệnh nhân. Mở rộng các khả năng khác nhau trong kỹ năng của các đội phẫu thuật có thể góp phần giải quyết các tranh cãi. Hội tim mạch Hoa Kỳ đã đưa ra giới hạn trên có thể chấp nhận được vệ tỳ lệ bệnh và tử vong trong mổ cắt màng trong động mạch cảnh tái diễn. Cũng nên ghi nhớ rằng cắt màng trong động mạch cảnh dự phòng không làm thay đổi tỷ lệ tai biến do biến chứng của ghép cầu nối động mạch vành. Tai biến ở những ca này có thể do huyết khối ở tim mà không phải từ mạch cảnh.

Cắt màng trong động mạch có thể chỉ định như là biện pháp cấp cứu cho bệnh nhân có biểu hiện thần kinh rất sớm và thay đổi bất thường với hẹp động mạch cảnh rõ. Nó không được sử dụng khi có tai biến cấp hoặc tai biến đang tiến triển hoặc khi có bệnh trong nội sọ nặng nề.

Tiên lượng

Tiên lượng và kết quả điều trị phụ thuộc vào con số các mạch bị bệnh, mức độ hẹp của mỗi mạch và lưu lượng tuần hoàn bàng hệ ở đa giác Willis. Những phẫu thuật hoàn hảo có tỷ lệ tử vong 1 - 2% và 1 - 4% các biến chứng thần kinh vĩnh viễn nặng và nhẹ; đó là những biểu hiện khác nhau trong hình ảnh này. Tai biến mạch não thoáng qua được biết là thứ phát sau hẹp và loét động mạch cảnh thường không phẫu thuật, dù trong tương lai có thể xuất hiện tai biến mạch não và tổn thương các động mạch khác như là hẹp động mạch cảnh đối bên hoặc tổn thương động mạch trong sọ. Nếu có bệnh động mạch vành đi kèm thì tỷ lệ tử vong toàn bộ của cả mổ và không mổ là giống nhau. Một mặt tốt khác là mổ ở bệnh nhân có tai biến mạch não thoáng qua có thể giảm tiến triển của các triệu chứng thần kinh trong 5 năm từ 34 - 35% xuống còn 10%.

Tỷ lệ tai biến mạch não sau khi cắt màng trong động mạch mà không phải do biến chứng phẫu thuật là khoảng 5 - 15%, và hẹp lại có thể có khi đã phẫu thuật động mạch, nó có thể không có triệu chứng lâm sàng. Hẹp động mạch cảnh không có triệu chứng chỉ có không đến 5 - 20% nguy cơ tai biến sau 3 - 5 năm.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh raynaud và hiện tượng raynaud

Bệnh Raynaud hoặc hiện tượng Raynaud có tính chất xuất hiện từng đợt trắng hoặc tím hoặc trắng sau đó là tím ở ngón tay (hiếm khi ngón chân), xuất hiện khi lạnh hoặc khi xúc động.

Bệnh động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường

Biểu hiện thần kinh của đái tháo đường với giảm hoặc mất nhận cảm của ngón chân và bàn chân có thể có, đưa đến tổn thương hoặc đê doạ loét mà có thể không để ý bởi vì không có đau.

Thiểu năng động mạch nội tạng

Đột ngột xuất hiện đau thắt bụng liên tục hoặc như bó chặt ở thượng vị và quanh rốn phối hợp với thấy rất ít hoặc không có gì qua khám bụng và thường bạch cầu tăng cao gọi là một trong sự cố của hệ mạc treo tràng trên.

Thiểu năng tĩnh mạch mạn tính

Suy tim ứ trệ và bệnh nhân mạn tính có thể gây phù cả hai bên cẳng chân, nhưng nói chung nó có những biểu hiện về lâm sàng và xét nghiệm của bệnh thận và tim.

Tắc động mạch huyết khối cấp

Tắc động mạch không hoàn toàn, mạn tính thuờng là do có thiết lập được tuần hoàn bàng hệ, và lưu lượng máu sẽ tăng qua tuần hoàn bàng hệ một khi có tắc tuần hoàn.

Bệnh nghẽn động mạch do Cholesterol

Ở vài bệnh nhân xơ vữa động mạch nặng gồm cả động mạch chủ và các nhánh của nó, dễ dàng nhận thấy một hội chứng do các vi nghẽn mạch từ các mảng xơ vữa.

Tắc động mạch chủ và động mạch chậu

Tắc động mạch chủ và động mạch chậu thường gặp từ đoạn gốc đến chỗ phân nhánh của động mạch chậu gốc và ở đoạn tận đến chỗ phân nhánh động mạch chủ.

Bệnh học loạn dưỡng giao cảm phản xạ

Ở giai đoạn sớm, đau, nhạy cảm với đau, tăng cảm có thể đúng ở vị trí vùng tổn thương, và chi có thể ấm, khô, lồi, và đỏ hoặc tím nhẹ, chi được giữ ở vị trí cố định bởi những khối cơ.

Tắc động mạch đùi khoeo

Khập khiễng cách hồi thấy ở bắp chân và bàn chân. Teo riêng biệt phần thấp cẳng chân và bàn chân, với rụng lông và teo da và tổ chức dưới da, và giảm kích thước cơ.

Tắc nghẽn động mạch cấp

Ở chân, triệu chứng đầu tiên thường là đau, tê cóng, lạnh và đau nhói. Không bắt được mạch ở động mạch bị tắc, lạnh, có những đốm hoặc xanh, giảm hoặc mất cảm giác và yếu, co thắt cơ, hoặc liệt.

Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch nông

Bệnh nhân thường đau âm ỉ ở vùng tĩnh mạch bị bệnh. Dấu hiệu tại chỗ bao gốm xơ cứng, đỏ, và nhạy cảm đau dọc theo tĩnh mạch. Tiến trình này có thể tại chỗ, hoặc có thể ở hầu hết tĩnh mạch hiển dài và các nhánh của nó.

Phình động mạch chủ ngực

Nếu nó có đi kèm bệnh van động mạch chủ, thay động mạch chủ là cần thiết, cũng có thể có chỉ định tái lập lại động mạch vành họặc cầu nối chủ vành.

Phình động mạch chủ bụng

Phình ở đoạn động mạch chủ ở trên ít gặp hơn. Đường kính của động mạch chủ dưới chỗ phân nhánh động mạch thận bình thường là 2 cm, khi đường kính vượt quấ 4 cm là nghi ngờ phình mạch.

Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch sâu

Tiền sử bị suy tim ứ trệ, mới phẫu thuật, khối u, dùng thuốc tránh thai đường uống, hoặc giãn tĩnh mạch; không hoạt động kéo dài cũng có thể là tiền tố bị bệnh.

Phình động mạch ngoại vi

Phần lớn các loại khác của phình mạch ngoại vi là ở động mạch đùi. Hầu hết tất cả là xơ vữa động mạch và xuất hiện trên nam giới, thường bị cả hai bên.

Phù bạch huyết

Đoạn viêm cấp hoặc mạn có thể cùng thêm vào, với tình trạng ứ trệ và xơ hóa tăng lên. Kết quả là chân sưng to, da và tổ chức dưới da xơ hóa và dày rõ và giảm các mô mỡ.

Phình tách động mạch chủ

Máu lách vào thành động mạch chủ, gây tách động mạch chủ. Chỗ tách nói chung bắt đầu từ đoạn gốc động mạch chủ ngay trên van động mạch chủ hoặc đầu còn lại ở chỗ phân nhánh động mạch dưới đòn trái.

Viêm mạch bạch huyết và viêm hạch bạch huyết

Viêm mạch bạch huyết có thể nhầm với viêm tĩnh mạch huyết khối nông, nhưng phản ứng ban đỏ đi kèm với huyết khối thường nằm trên nền cứng của phản ứng viêm ở tại hoặc xung quanh tĩnh mạch có huyết khối.

Tắc động mạch cẳng chân và bàn chân

Toàn bộ các biểu hiện có thể có của bệnh mạch ở cẳng chân và bàn chân không thể mô tả ở đây, chỉ có thể trình bày những khía cạnh lâm sàng chủ yếu có giá trị ở những bệnh nhân này.

Viêm mạch huyết khối tắc nghẽn: bệnh buerger

Bệnh Buerger là một quá trình từng đợt từng đoạn bị nhiễm khuẩn và huyết khối ở động mạch và tĩnh mạch, chủ yếu ở chân. Nguyên nhân chưa được biết.

Tắc tĩnh mạch chủ trên

Biểu hiện của triệu chứng thường cấp hoặc bán cấp, triệu chứng bao gồm sưng nề ở cổ, mặt, đau đầu, chóng mặt, rối loạn thị giác, trạng thái sững sờ, hoặc ngất.

Bệnh xơ vữa động mạch có tắc

Tắc động mạch chủ và các nhánh của nó là nguyên nhân thường gặp gây ra tàn tật. Nó cũng là một xác nhận về tỷ lệ tử vong của bệnh nhân tim mạch và những cuộc mổ mà họ trải qua.

Mạng xanh tím hình lưới trên da

Mạng xanh tím hình lưới phần lớn biểu hiện ở đùi và cẳng tay và có thể ở phía dưới bụng, phần lớn nó đước báo trước khi trời lạnh. Màu sắc có thể thay đổi thành màu hơi đỏ khi thời tiết ấm nhưng không phải biến mất hoàn toàn.

Viêm động mạch tự phát Takayasu: bệnh vô mạch

Bệnh vô mạch phải được phân biệt với các tổn thương mạch ở quai động mạch chủ do xơ vữa, dù rằng do xơ vữa ở cả hai chi đưâi có biểu hiện khác nhau. Về mô học, tổn thương động mạch phân biệt với viêm động mạch tế bào khổng lồ.

Hạ huyết áp và sốc

Sốc xuất hiện khi tuần hoàn máu động mạch không đủ cung cấp cho nhu cầu chuyển hóa của mô. Điều trị phải hướng đến cả chống sốc và điều trị nguyên nhân.