- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu và bạch huyết
- Phình động mạch chủ ngực
Phình động mạch chủ ngực
Nếu nó có đi kèm bệnh van động mạch chủ, thay động mạch chủ là cần thiết, cũng có thể có chỉ định tái lập lại động mạch vành họặc cầu nối chủ vành.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Xơ vữa động mạch là nguyên nhân gây ra hầu hết các bệnh động mạch. Tỷ lệ bệnh này tăng cùng với tuổi; dù rằng biểu hiện của bệnh có thể xuất hiện ở tuổi tứ tuần, nhưng khị trên 40 tuổi (đặc biệt nam giới) hầu hết thường bị nhiễm bệnh. Yếu tố nguy cơ gồm tăng cholerterol máu, đái tháo đường, hút thuốc lá và tăng huyết áp. Xơ vữa động mạch có xu hướng là một bệnh toàn thân với mức độ nào đó bao gồm tất cả các động mạch lớn, nhưng nó chỉ biểu hiện trên lâm sàng, khi tác động nặng nề vào một số hạn chế các động mạch. Hẹp và tắc lòng động mạch là biểu hiện thường gặp nhất của bệnh, nhưng thành động mạch suy yếu do mất elastin và collagen, kết quả làm giãn phình mạch cũng biểu hiện, và cả hai hậu quả này có thể biểu hiện trên cùng một cá thể. Các bệnh động mạch ít gặp hơn bao gồm viêm động mạch (cả động mạch lớn và nhỏ), viêm mạch tạo huyết khối nghẽn (bệnh Buerger), loạn sản xơ của động mạch nội tạng, viêm động mạch chủ do giang mai, và viêm động mạch lan toả.
Phình động mạch chủ ngực thường gặp nhất là do xơ vữa động mạch, giang mai giờ đây hiếm gặp. Viêm mạch và giãn vòng van động mạch chủ (có hoặc không có hội chứng Marfan) có thể cũng gây ra phình động mạch chủ ngực. Phình động mạch do chấn thương có thể xuất hiện ở phía bên kia chỗ tách ra của động mạch dưới đòn trái khi thành động mạch bị rách không hoàn toàn bởi kết quả của một tai nạn. Dưới 10% phình động mạch chủ là ở ngực.
Triệu chứng và dấu hiệu
Biểu hiện lâm sàng của nó phụ thuộc vào kích thước và vị trí của phình mạch và tốc độ tiến triển.
Có thể không cò triệu chứng và dấu hiệu nào và phình mạch được phát hiện chẩn đoán khi chụp phim X quang ngực một cách tình cờ.
Có thể có đau ngực dưới xương ức, đau lưng, đau cổ, đồng thời những dấu hiệu và triệu chứng do chèn ép lên (1) khí quản (khó thở, thở rít, ho), (2) thực quản (khó nuốt), (3) dây thần kinh thanh quản quặt ngược trái (khàn giọng) hoặc (4) tĩnh mạch chủ trên (phù ở cổ và tay, tĩnh mạch cổ nổi). Hở van động mạch chủ có thể có.
Ghi hình ảnh
Ngoài hình ảnh X quang ngực, chụp động mạch chủ là cần thiết để xác định chẩn đoán và xác định vị trí chính xác và phạm vi của phình mạch và mối liên quan của nó với các nhánh tách ra từ quai động mạch chủ. Chụp cắt lóp vi tính thường dùng nhiều hơn siêu âm trong phình động mạch chủ và nó có tính nhạy và đặc hiệu như là chụp động mạch chủ, cũng như vậy với cộng hưởng từ hạt nhân. Mạch vành và van động mạch chủ cũng nên được xem xét nếu phình mạch gồm cả động mạch chủ lên. Siêu âm sẽ đưa ra đánh giá thích họp về tình trạng van.
Chẩn đoán phân biệt
Khó có thể xác đinh được một khối ở trung thất là phình mạch, khối u hay là nang, kén. Chụp X quang như đề cập ở trên sẽ phân biệt được một phình mạch. Xét nghiệm Iod phóng xạ (I125) có thể giúp cho chẩn đoán một bướu ở ức.
Điều trị
Phình động mạch chủ ngực thường tiến triển với những triệu chứng tăng nhanh, và cuối cùng gây rách, cắt đoạn phình giờ đây là cân nhắc khi lựa chọn điều trị, nếu có đội ngũ phẫu thuật viên giỏi có khả năng và nếu tình trạng chung bệnh nhân chịu được cuộc phẫu thuật thì có thể thực hiện được. Những phình mạch nhỏ không có triệu chứng đặc biệt ở bệnh nhân có nguy cơ thấp, tốt hơn chỉ điều trị khi tiến triển to lên nhiều. Điều trị tăng huyết áp có thể hạn chế tiến triển của bệnh, và dùng chẹn beta để điều trị có đáp ứng tốt. Tỷ lệ tử vong của toàn bộ phẫu thuật phình động mạch chủ ngực tuy có cao hơn 3 - 5% tỷ lệ phình động mạch chủ bụng trong các biến chứng của phẫu thuật, nhưng không có một nghiên cứu nào cho phép đánh giá nguy cơ này một cách chính xác.
Nếu nó có đi kèm bệnh van động mạch chủ, thay động mạch chủ là cần thiết, cũng có thể có chỉ định tái lập lại động mạch vành họặc cầu nối chủ vành. Liệt hai chân do tổn thương động mạch cột sống trước là biến chứng do cắt, nối phình mạch ở 3% trường hợp gồm cả động mạch chủ ngực xuống.
Tiên lượng
Phình nhỏ có thể thay đổi rất ít qua nhiều năm, và tử vong có thể là do nguyên nhân khác hơn là do rách. Nếu phình lớn, có triệu chứng, và phối hợp tăng huyết áp hoặc xơ vữa và bệnh cơ tim thì sẽ có tiên lượng xấu. Những phình mạch thành túi, trải từ đoạn tận đến động, mạch dưới đòn trái, và giới hạn ở đoạn động mạch chủ lên có thể phẫu thuật và nguy cơ là ít như đã trình bày ở trên. Kỹ thuật chính trong mổ phình mạch là chuyển cung động mạch chủ, chỉ có thể thực hiện được với đội ngũ phẫu thuật viên lành nghề, sử dụng phương pháp hạ nhiệt độ để bào vệ hệ thần kinh.
Bài viết cùng chuyên mục
Phù bạch huyết
Đoạn viêm cấp hoặc mạn có thể cùng thêm vào, với tình trạng ứ trệ và xơ hóa tăng lên. Kết quả là chân sưng to, da và tổ chức dưới da xơ hóa và dày rõ và giảm các mô mỡ.
Phình động mạch ngoại vi
Phần lớn các loại khác của phình mạch ngoại vi là ở động mạch đùi. Hầu hết tất cả là xơ vữa động mạch và xuất hiện trên nam giới, thường bị cả hai bên.
Giãn tĩnh mạch
Giãn, nổi chằng chịt, kéo dài tĩnh mạch dưới da ở đùi và chân nói chung nhìn thấy rõ khi đứng, tuy nhiên ở bệnh nhân béo phì có thể cần thiết phải sờ để phát hiện biểu hiện và vị trí.
Mạng xanh tím hình lưới trên da
Mạng xanh tím hình lưới phần lớn biểu hiện ở đùi và cẳng tay và có thể ở phía dưới bụng, phần lớn nó đước báo trước khi trời lạnh. Màu sắc có thể thay đổi thành màu hơi đỏ khi thời tiết ấm nhưng không phải biến mất hoàn toàn.
Thiểu năng động mạch nội tạng
Đột ngột xuất hiện đau thắt bụng liên tục hoặc như bó chặt ở thượng vị và quanh rốn phối hợp với thấy rất ít hoặc không có gì qua khám bụng và thường bạch cầu tăng cao gọi là một trong sự cố của hệ mạc treo tràng trên.
Bệnh xơ vữa động mạch có tắc
Tắc động mạch chủ và các nhánh của nó là nguyên nhân thường gặp gây ra tàn tật. Nó cũng là một xác nhận về tỷ lệ tử vong của bệnh nhân tim mạch và những cuộc mổ mà họ trải qua.
Tím và đỏ đau đầu chi
Đỏ đau đầu chi là một rối loạn giãn mạch kịch phát cả hai bên, nguyên nhân chưa được biết. Đỏ đau đầu chi tự phát xuất hiện trên người khoẻ mạnh bình thường, hiếm khi ở trẻ em, ở nam giới và nữ giới là tương đương.
Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch nông
Bệnh nhân thường đau âm ỉ ở vùng tĩnh mạch bị bệnh. Dấu hiệu tại chỗ bao gốm xơ cứng, đỏ, và nhạy cảm đau dọc theo tĩnh mạch. Tiến trình này có thể tại chỗ, hoặc có thể ở hầu hết tĩnh mạch hiển dài và các nhánh của nó.
Bệnh nghẽn động mạch do Cholesterol
Ở vài bệnh nhân xơ vữa động mạch nặng gồm cả động mạch chủ và các nhánh của nó, dễ dàng nhận thấy một hội chứng do các vi nghẽn mạch từ các mảng xơ vữa.
Tắc mạch não
Tai biến mạch máu não thoáng qua có thể là biểu hiện sớm nhất của loét hoặc hẹp động mạch. Nó thường chỉ kéo dài trong vài phút nhưng có thể tái diễn trong 24 giờ.
Bệnh động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường
Biểu hiện thần kinh của đái tháo đường với giảm hoặc mất nhận cảm của ngón chân và bàn chân có thể có, đưa đến tổn thương hoặc đê doạ loét mà có thể không để ý bởi vì không có đau.
Tắc nghẽn động mạch cấp
Ở chân, triệu chứng đầu tiên thường là đau, tê cóng, lạnh và đau nhói. Không bắt được mạch ở động mạch bị tắc, lạnh, có những đốm hoặc xanh, giảm hoặc mất cảm giác và yếu, co thắt cơ, hoặc liệt.
Hạ huyết áp và sốc
Sốc xuất hiện khi tuần hoàn máu động mạch không đủ cung cấp cho nhu cầu chuyển hóa của mô. Điều trị phải hướng đến cả chống sốc và điều trị nguyên nhân.
Bệnh học loạn dưỡng giao cảm phản xạ
Ở giai đoạn sớm, đau, nhạy cảm với đau, tăng cảm có thể đúng ở vị trí vùng tổn thương, và chi có thể ấm, khô, lồi, và đỏ hoặc tím nhẹ, chi được giữ ở vị trí cố định bởi những khối cơ.
Tắc tĩnh mạch chủ trên
Biểu hiện của triệu chứng thường cấp hoặc bán cấp, triệu chứng bao gồm sưng nề ở cổ, mặt, đau đầu, chóng mặt, rối loạn thị giác, trạng thái sững sờ, hoặc ngất.
Tắc động mạch huyết khối cấp
Tắc động mạch không hoàn toàn, mạn tính thuờng là do có thiết lập được tuần hoàn bàng hệ, và lưu lượng máu sẽ tăng qua tuần hoàn bàng hệ một khi có tắc tuần hoàn.
Phình động mạch chủ bụng
Phình ở đoạn động mạch chủ ở trên ít gặp hơn. Đường kính của động mạch chủ dưới chỗ phân nhánh động mạch thận bình thường là 2 cm, khi đường kính vượt quấ 4 cm là nghi ngờ phình mạch.
Viêm động mạch tự phát Takayasu: bệnh vô mạch
Bệnh vô mạch phải được phân biệt với các tổn thương mạch ở quai động mạch chủ do xơ vữa, dù rằng do xơ vữa ở cả hai chi đưâi có biểu hiện khác nhau. Về mô học, tổn thương động mạch phân biệt với viêm động mạch tế bào khổng lồ.
Phình tách động mạch chủ
Máu lách vào thành động mạch chủ, gây tách động mạch chủ. Chỗ tách nói chung bắt đầu từ đoạn gốc động mạch chủ ngay trên van động mạch chủ hoặc đầu còn lại ở chỗ phân nhánh động mạch dưới đòn trái.
Thiểu năng tĩnh mạch mạn tính
Suy tim ứ trệ và bệnh nhân mạn tính có thể gây phù cả hai bên cẳng chân, nhưng nói chung nó có những biểu hiện về lâm sàng và xét nghiệm của bệnh thận và tim.
Tắc động mạch cẳng chân và bàn chân
Toàn bộ các biểu hiện có thể có của bệnh mạch ở cẳng chân và bàn chân không thể mô tả ở đây, chỉ có thể trình bày những khía cạnh lâm sàng chủ yếu có giá trị ở những bệnh nhân này.
Tắc động mạch đùi khoeo
Khập khiễng cách hồi thấy ở bắp chân và bàn chân. Teo riêng biệt phần thấp cẳng chân và bàn chân, với rụng lông và teo da và tổ chức dưới da, và giảm kích thước cơ.
Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch sâu
Tiền sử bị suy tim ứ trệ, mới phẫu thuật, khối u, dùng thuốc tránh thai đường uống, hoặc giãn tĩnh mạch; không hoạt động kéo dài cũng có thể là tiền tố bị bệnh.
Tắc động mạch chủ và động mạch chậu
Tắc động mạch chủ và động mạch chậu thường gặp từ đoạn gốc đến chỗ phân nhánh của động mạch chậu gốc và ở đoạn tận đến chỗ phân nhánh động mạch chủ.
Viêm mạch bạch huyết và viêm hạch bạch huyết
Viêm mạch bạch huyết có thể nhầm với viêm tĩnh mạch huyết khối nông, nhưng phản ứng ban đỏ đi kèm với huyết khối thường nằm trên nền cứng của phản ứng viêm ở tại hoặc xung quanh tĩnh mạch có huyết khối.