Nhiễm sán dây
Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Phân loại
Có sáu loại sán dây hay gây bệnh ở người. Các sán dây kích thước lớn là Taenia saginata (sán dây bò, dài tới 25 m), Taenia solium (sán dây lợn, 7m) và Diphyllobothrium latum (sán dây cá, 10m). Các sán dây kích thước nhỏ là Hymenolepis nana (loài sán tí hon, 25 - 40 mm), Hymenolepis diminuta (sán dây của loài gặm nhâm, 20 - 60 cm), và Dipylidium canium (sán dây chó, 10 - 70 cm). Bốn trong sáu loài sán có mặt trên toàn thế giới; sán dây lợn và cá có phân bổ hạn chế hoai. Người là vật chủ cuối củng duy nhất của T. saginata và T. solium. Cấu tạo của sán dây trưởng thành bao gồm một đầu (scolex), cổ, và một chuỗi các đốt độc lập (proglottid) là noi trứng hình thành trong các đốt trưởng thành. Đầu sán là bộ phận gắn kết của sán, thường nằm ở phần trên của ruột non.
Nhiễm nhiều sán là quy luật cho các sán nhỏ và có thể xuất hiện với D. latum; tuy nhiên, ít khi một người có trên 1 hoặc 2 con taeniae.
Sán dây bò
Nhiễm sán bò có mặt ở hầu hết các nước chăn nuôi bò nhưng lưu hành cao ở một số vùng viễn Đông, Trung và Đông Phi, và vùng Trung Á của Liên Xô cũ. Các đốt trưởng thành của T. saginata trong ruột người tự rời ra khỏi chuỗi và thải theo phân ra đất. Khi các đốt sán hoặc trứng bị động vật móng guốc ăn cỏ hoặc các loài bò nhà ăn phải, trứng nở và giải phóng ra phôi; đóng thành kén trong tổ chức cơ gọi là các ấu trùng sán (cysticerci). Người bị nhiễm bệnh khi ăn thịt bò sống hoặc nấu chưa chín chứa các ấu trùng sán còn sống - Cysticercus bovis. Trong ruột người, các ấu trùng sán phát triển thành sán trưởng thành.
Sán dây lợn
Loài sán này đặc biệt gặp nhiều ở Mexico, Châu Mỹ La Tinh, bán đảo Iberia, các nước Slavơ, Châu Phi, Đông Nam Á, Ấn Độ và Trung Quốc. Ở Hoa Kỳ và Canada, nhiễm sán lợn ở người ít gặp, thường chỉ ở những người nhiễm bệnh ở nước ngoài; nhiễm ấu trùng sán Cysticercus ở lợn đực thường ít gặp. Bệnh không còn thấy ở Tây Bắc Châu Âu. Vòng đời của T. solium cũng giống như vòng đời của T. saginata ngoại trừ lợn ăn phân người có chứa các đốt sán và trứng, và trở thành vật chủ của giai đoạn ấu trùng. Người bị mắc bệnh khi ăn thịt lợn nấu chưa chln chứa C. cellulosae còn sống. Người còn là vật chủ trung gian khi bị nhiễm giai đoạn ấu trùng (xem nhiễm cysticercus ở dưới) do tình cờ ăn phải trứng sán trong phân người; trứng có khả năng gây bệnh ngay. Lây nhiễm trứng có thể xuất hiện như tình trạng tự nhiễm (tay tới miệng), lây truyền trực tiếp từ người sang người, do ăn phải thức ăn và nước nhiễm trứng, hoặc (hiếm khi) trào ngược các đốt sán vào dạ dày.
Sán dây cá
Sán D. latum có mặt ở các vùng hồ ôn đới và cận cực ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm Bắc Âu, Canada, Alaska, ven biển Thái Bình Dương của Hoa Kỳ (bệnh có thể không còn tồn tại ở vùng Hổ Lớn), Nhật Bản, Đài Loan, Siberia, Manchuria, Australia, và Nam Nam Mỹ và Nam Châu Phi. Trứng sán theo phân người vào nước ngọt, đầu tiên bị các động vật giáp xác ăn, các động vật giáp xác này sau đó lại bị cá ăn; cả hai loài này đều là vật chủ trung gian. Người bị bệnh khi ăn cá nước lợ hoặc cá nước ngọt còn sống hoặc chưa nấu chín, kể cả cá hồi. Ngoài người, các vật chủ (ổ bệnh) còn bao gồm chó, gấu, và các súc vật ăn cá khác.
Sán dây tí hon
H. nana là loài sán đốt phổ biến nhất. Nhiễm H. nana có phân bố rộng, nhất là ở trẻ em, ở những vùng vệ sinh phân còn kém và các cơ sở tập trung khép kín trên toàn thế giới. Người là vật chủ cuối cùng của các dòng sán người; các dòng sán thích nghi với động vật gặm nhấm xuất hiện ở động vật gặm nhấm. Vòng đời của sán đặc biệt ở chỗ cả giai đoạn ấu trùng và giai đoạn trưởng thành đều có trong ruột người, quá trình tự nhiễm nội sinh có thể xuất hiện, và nói chung không có vật chủ trung gian. Sự lây truyền diễn ra khi nhiễm trứng trực tiếp từ người sang người (trứng sán có khả năng gây bệnh ngay) nhưng đôi khi liên quan đến các vật dụng, nước, hoặc thức ăn, hoặc do nuốt phải bọ chét hay bọ cánh cứng nhiễm ấu trùng sán. Nhiễm H. nana ở trẻ em thường tự khỏi khi trẻ lớn.
Sán dây của động vật gặm nhấm
Sán H. diminuta là loài ký sinh thường gặp của động vật gặm nhấm. Nhiều loài côn trùng (như bọ chét, chuột, bọ cánh cứng và gián) đóng vai trò vật chủ trung gian. Người - phần lớn là trẻ nhỏ - bị nhiễm bệnh do tình cờ nuốt phải các côn trùng nhiễm sán, thường là trong ngũ cồc hoặc các thực phẩm lưu trữ.
Sán dây chó
Nhiễm sán D. caninum thường xuất hiện ở trẻ nhỏ tiếp xúc gần với chó hoặc mèo nhiễm bệnh. Sự lây truyền xảy ra do nuốt phải các vật chủ trung gian nhiễm bệnh như bọ chét hoặc rận.
Triệu chứng và dấu hiệu
Các sán dây kích thước lớn
Nhiễm các sán dây lớn nói chung không triệu chứng. Đôi khi, các triệu chứng tiêu hóa không rõ ràng (như buồn nôn, ỉa chảy, đau bụng) và các triệu chứng toàn thân (như mệt mỏi, đói, chóng mặt) được cho là nhiễm sán. Nôn ra các đốt sán hoặc tắc ống mật, tắc ống tụy, hoặc viêm ruột thừa hiếm gặp.
Một số người (phần lớn là cư dân bán đảo Scandinavia) nhiễm sân dây cá có biểu hiện thiếu máu hồng cẩu to đi kèm với giảm tiểu cầu và bạch cầu. Độ acid dịch vị bình thường. Thiếu máu là kết quả tranh giành B12 của sán với cơ thể vật chủ. Các dấu hiệu lâm sàng không khác biệt với thiếu máu ác tính và bao gồm viêm lưỡi, khó thở, tim đập nhanh, và các biểu hiện thần kinh (tê bì, rối loạn cảm giác, rối loạn thăng bằng, nghe kém và cảm giác không gian, sa sút trí tuệ).
Các sán dây kích thước nhỏ
Nhiễm sán nhẹ nói chung không có biểu hiện lâm sàng. Nhiễm sán nặng, nhất là H. nana, có thể gây ỉa chảy, đau bụng, chán ăn, nôn, gầy. sút, và bứt rứt.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Nhiễm sán dây bò hoặc lợn có thể được bệnh nhân tự phát hiện khi thấy có các đốt sán trong phân, quần áo hoặc chăn đệm. Để xác định loại sán, các đốt sán được ép phẳng giứa hai lam kính và soi hiển vi tìm các chi tiết cấu trúc hoặc phân biệt bằng phương pháp phân tích điện di men glucose phosphat isomerase. Trứng sán ít khi có trong phân, nhưng xét nghiệm bằng nilon hậu môn giống như trong chẩn đoán giun kim đôi khi có ích trong việc phát hiện trứng T. saginata. Tuy nhiên, trứng của các loài taenia trông giống nhau, không thể phân biệt được nếu không sử dụng các phương pháp đặc chủng. Phát hiện các kháng nguyên đặc hiệu của taenia trong phân hiện đang được nghiên cứu có thể là phương pháp nhạy cảm nhất để xác định bệnh.
Sán dây cá được chẩn đoán khi tìm thấy các trứng sán có nắp đặc trưng trong phân; có thể cần xét nghiệm nhiều lần. Các đốt sán đôi khi thải ra ngoài, và cấu trúc bên trong của đốt cũng có giá trị chẩn đoán. Sự hiện diện của acid hydrochloric trong dịch vị giúp chẩn đoán phân biệt thiếu máu do sán với thiếu máu ác tính; trong cả hai trường hợp, test Schilling đều bất thường.
Nhiễm sán H. nana và H. diminuta được chẩn đoán khi tìm thấy các trứng đặc trưng trong phân; các đối sán thường không tìm thấy. Nhiễm D. canium được chẩn đoán khi phát hiện các đốt sán (kích thước bằng hạt dưa hấu) trong phân hoặc sau khi chúng tự di chuyển ra ngoài hậu môn.
Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây; xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.
Điều trị
Các biện pháp đặc hiệu
Mặc dù cả praziquantel và niclosamid là các thuốc điều trị lựa chọn cho phần lớn bệnh do sán dây, praziquantel có tác dụng hơn trong nhiễm sán H. nana, và một số tác giả cho rằng thuốc này có vẻ có hiệu quả hơn trong các bệnh sán taenia, ở những vùng có bệnh cysticercus thần kinh, liều praziquantel 5 mg/kg hoặc cao hơn mang nguy cơ nhỏ gây hoạt hóa các tổn thương.
T. saginata và D. latum
Praziquantel liều duy nhất 10 mg/kg đạt tỷ lệ chữa khỏi khoảng 99%. Với liều này, các tác dụng phụ rất hiếm. Với liều duy nhất bốn viên (2g) niclosamid, tỷ lệ chữa khỏi trên 90% có thể dự đoán. Thuốc được uống vào buổi sáng, trước khi bệnh nhân ăn. Các viên thuốc phải được nhai kỹ và uống với nước. Có thể ăn sau đó 2 giờ. Niclosamid thường không gây tác dụng phụ.
Không dùng thuốc nhuận tràng trước và sau dùng thuốc với bất kỳ thuốc nào. Thiếu máu và các biểu hiện thần kinh trong nhiễm D. latum đáp ứng với vitamin B12 như trong điều trị thiếu máu ác tính.
T. solium
Lựa chọn thuốc và phương pháp điều trị như ở trên. Đối với cả hai loại thuốc, có thể cần cho nhuận tràng nhẹ 2 - 3 giờ sau điều trị để nhanh chóng thải trừ các đốt sán ra khỏi ruột. Bệnh nhân cần được dặn dò về sự cần thiết của việc rửa tay và rửa vùng hậu môn kỹ lưỡng sau khi đi ngoài, và việc xử lý phân an toàn trong 4 ngày sau điều trị.
H. nana
Praziquantel, thuốc điều trị lựa chọn, có tỷ lệ chữa khỏi 95% với liều duy nhất 25 mg/kg. Niclosamid thuốc điều trị thay thế, có tỷ lệ chữa khỏi 75% khi cho liều như trên trong 5 - 7 ngày; một số tác giả nhắc lại liệu trình trên sau 5 ngày.
H. diminuta và D. caninum
Điều trị bằng niclosamid hoặc praziquantel ở liều như đối với H. nana. Tỷ lệ chứa khỏi chưa được xác định.
Chăm sóc sau điều trị
Trong điều trị nhiễm các sán dây kích thước lớn, cá thể sán thường thải ra ngoài làm nhiều đoạn trong vòng 24 - 48 giờ sau điều trị. Do các đốt sán thải ra nói chung không được thu nhặt và xác định đầu, điều trị coi như là khỏi nếu sau 3 - 5 tháng không thấy có các đốt sán tái tạo xuất hiện lại. Nếu cần xác định khỏi bệnh ngay, cần tìm đầu sán trong phân sau điều trị; cần cho thuốc nhuận tràng 2 giờ sau điều trị, và thu thập phân trong 24 giờ. Để giúp cho việc xét nghiệm, giây vệ sinh phải được loại riêng cẩn thận.
Phòng bệnh và tiên lượng
C. cellulosae bị diệt khi đun đến 65°c hoặc làm lạnh đến - 20°c trong 12 giờ; C. bovis ở 56°c hoặc - 10°C trong 5 ngày. Trộn giấm hoặc chanh không đủ diệt ấu trùng sán. Do tiên lượng thường xấu trong bệnh nhiễm cysticercus não, nhiễm T. solium phải điều trị ngay lập tức.
Bài viết cùng chuyên mục
Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)
Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.
Sốt rét
Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.
Bệnh do Trypanosoma châu mỹ
Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.
Bệnh ấu trùng di trú ở da
Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.
Bệnh nang chùm
Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.
Bệnh do Balantidium (balantidiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.
Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)
Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.
Bệnh do amip
Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.
Bệnh giun chỉ Onchocera
Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.
Bệnh giun móc
Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.
Bệnh do Babesia
Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.
Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis
Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.
Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)
Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.
Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.
Bệnh do Toxoplasma
Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.
Bệnh do Trypanosoma châu phi
Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.
Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)
Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó
Bệnh giun lươn
Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân, là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun.
Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp
Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.
Bệnh giun chỉ Loa loa
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.
Bệnh giun kim
Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.
Bệnh do Leishmania
Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.
Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh
Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.
Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.