Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)

2016-05-24 10:20 AM

Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhiễm leishmania da và niêm mạc xuất hiện ở những vùng rừng thấp và do nhóm leishmania (vianna) gây ra, thường là L.(V). braziliensis (Trung và Nam Mỹ), đôi khi L.(V) panamensis Trung Mỹ và Đông Bắc Nam Mỹ, hoặc L. (V)peruviana (peru). Tổn thưong ban đầu, đơn lẻ hoặc nhiều, xuất hiện ở vùng da hở; đầu tiên có dạng sẩn (có thể kèm ngứa hoặc đau), sau chuyển dạng nốt và về sau có thể loét hoặc chuyển thành kiểu mụn cơm hoặc sùi. Sau đó bệnh liền tại chỗ, có tạo sẹo trong vòng vài tháng tới một năm. Sự xâm nhiễm hốc mũi và miệng xảy ra sau đó ở phần nhỏ bệnh nhân do tiến triển trực tiếp, hoặc thường gặp hơn, do di bệnh tới niêm mạc. Xâm nhiễm niêm mạc có thể xuất hiện đồng thời với tổn thương ban đầu, một thời gian ngắn sau khi tổn thương ban đầu liền hoặc nhiều năm sau đó. Niêm mạc phía trước của vách ngăn mũi, nói chung là vùng đầu tiên bị xâm nhiễm. Các mô mềm và sụn ở mũi hốc miệng và môi có thể bị phá hủy nặng sau đó, và sự phá hủy có thể lan sang thanh quản và hầu họng. Hậu quả có thể là sự biến dạng thô bạo bề ngoài và rối loạn đáng kể về chức năng. Nhiễm khuẩn thứ phát thường gặp. Viêm mạch bạch huyết tại chỗ, viêm hạch, sốt, gầy sút, viêm giác mạc và thiếu máu có thể gặp.

Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô. Ký sinh gây bệnh rất khó nuôi cấy trong môi trường hoặc qua gây nhiễm cho chuột đồng; nếu dương tính, cần cố gắng định loài. Test leishmanin da có giá trị khi kích thích một nốt sẩn phát triển đầy đủ trong vòng 2 - 3 ngày và biến mất sau một tuần. Xét nghiệm ngưng kết trực tiếp tìm kháng thể IgM trở nên dương tính trong 4 - 6 tuần. Kháng thể IgG phát hiện được trong hầu hết các ca bệnh và mất đi sau khi bệnh khỏi. Các chẩn đoán phân biệt chính bao gồm nhiễm nấm paracoccidioides tăng tế bào lưới đa hình (polymorphic reticulosis), u hạt Wegener, u lympho và ung thư hầu mũi; các bệnh này chỉ có thể phân biệt trên sinh thiết.

Điều trị bệnh rất khó khăn, tỷ lệ thất bại cao trong trường hợp bệnh nặng, ngay cả khi điều trị một đợt đầy đủ (28 ngày) stibogluconat natri. Nếu điều trị antimon nhắc lại và kéo dài vẫn thất bại, cần sử dụng amphotericin B. Điều trị phối hợp antimon và gamma interferon đang được nghiên cứu. Có thể cần đến các corticosteroid để kiểm soát phản ứng viêm tại chỗ do các kháng nguyên được giải phóng ra. Các kháng sinh thường cần để điều trị nhiễm vi khuẩn hoặc nấm kèm theo.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh giun chỉ Onchocera

Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.

Nhiễm coccidium và microsporidia

Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.

Bệnh giun Gnathostoma

Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.

Bệnh do Trypanosoma châu mỹ

Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.

Bệnh do Toxoplasma

Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.

Bệnh do Trypanosoma châu phi

Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.

Bệnh giun chỉ

Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.

Bệnh giun móc

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.

Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis

Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.

Bệnh do Babesia

Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.

Bệnh giun chỉ Loa loa

Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Bệnh nang túi

Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.

Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa

Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.

Nhiễm sán dây

Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.

Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.

Bệnh nang chùm

Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.

Sốt rét

Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.

Bệnh do Leishmania

Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Bệnh giun đũa

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Bệnh giun rồng

Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.

Bệnh do nhiễm Giardia

Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.