- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán
- Nhiễm Leishmania da
Nhiễm Leishmania da
Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Phủ ngoài da xuất hiện 2 tuần tới vài tháng sau khi ruồi cát đốt, có thể một nơi hoặc nhiều nơi. Tùy thuộc vào loài leishmania và đáp ứng miễn dịch của người, các tổn thương bắt đầu dưới dạng các nốt sẩn nhỏ và phát triển thành các mảng sẩn khô không loét hoặc các vết loét lớn đóng vẩy có bờ cứng và nổi gờ trên mặt da. Các tổn thương vệ tinh có thể xuất hiện. Các tổn thương da không đau, trừ khi bị bội nhiễm. Các hạch lympho tại chỗ có thể to. Các triệu chứng toàn thân ít gặp, có thể có sốt nhẹ và ngắn trong giai đoạn đầu của bệnh. Đối với hầu hết các loài, các tổn thương da tự liền sau vầi tháng tới 1- 3 năm, bắt đầu từ tổ chức hạt xuất hiện ở trung tâm, lan dần ra ngoại vi. Các biến chứng mủ dẫn đến viêm bạch mạch hoặc viêm quầng. Sẹo nhúm có thể gây biến dạng hoặc dị tật, nhất là khi tổn thương ở trên mặt.
Nhiễm leishmania da lan tỏa do phức hợp L. mexicana và L. aethiopica gây nên. Các tổn thương không loét (giống phong thể u phong) xuất hiện trên toàn bộ cơ thể. Bệnh liên quan đến tình trạng mất phản ứng, khi test da âm tính nhưng amastigote thì rất nhiều. Mặc dù được điều trị nhiều đợt với antimon, pentamidin hoặc amphotericin, bệnh rất khó chữa khỏi.
Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử. Xét nghiệm huyết thanh học và test leishmanin da trở nên dương tính sau 4 - 6 tuần nhưng các xét nghiệm này không đáng tin cậy; Phần lớn các thăm dò không phân biệt được nhiễm leishmania với nhiễm Trypanosoma cruzi và có thể có phản ứng chéo ở hiệu giá thấp trong sốt rét, nhiễm toxoplasma và nhiễm amip.
Bệnh do leishmania da cựu thế giới
Các căn nguyên của nhiễm leíshmania da cựu thế giới là:
L.tropica gây nhiễm bệnh thành thị ở chó và người. Bệnh phân bổ ở Trung Đông, Đông Bắc Ấn Độ, Đông Phi, vùng Trung Á thuộc Liên Xô cũ, Afghanistan, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Armenia, Hy Lạp, và phía Nam Pháp và Italia. Giai đoạn ủ bệnh kéo dài 2 tháng hoặc lâu hơn, bệnh khỏi hoàn toàn trong 1- 2 năm. Các tổn thương của nhiễm L. tropica thường đơn độc và khô, hóa loét chậm hoặc hoàn toàn không loét, và tồn tại một năm hoặc lâu hơn. Nhiễm Leishmania tái phát là một dạng tái phát của nhiễm L. tropica, trong đó có sự lan truyền ngoại vi ở thời điểm tổn thương tiên phát gần như đã liền, tạo thành các sẹo lớn; bệnh liên quan tới tình trạng quá mẫn và test da dương tính mạnh nhưng amastigote thì rất ít. Xâm nhiễm L. tropica vào nội tạng ít khi được thông báo nhưng tương đối kháng với điều trị antimon.
Nhiễm L. major phân bổ ở những vùng khô hạn hoặc hoang mạc và chủ yếu là bệnh của các loài gặm nhâm sa mạc. Bệnh ở người xuất hiện ở Trung Đông, vùng Trung Á thuộc Liên Xô cũ, bán đảo Arập, Afghanistan, và Châu Phi (Bắc, Đông và phần Châu Phi dưới Sahara từ Senegal tới Sudan và Kenya). Các tổn thương được đặc trưng bằng nhiều vết loét ướt, tiến triển nhanh, có vẩy. Các vết loét thường khỏi hoàn toàn và tự nhiên sau 6 - 12 tháng.
Nhiễm L. aethiopica xuất hiện ở các cao nguyên Ethiopia và Kenya. Loét ít xảy ra, quá trình liền bệnh tự nhiên diễn ra chậm, sau vài năm. Một biến chứng ít gặp là nhiễm leishmania da lan tỏa.
L. donovani đôi khi gây bệnh ngoài da cùng các biểu hiện nội tạng. Nhiễm leishmania cựu thế giới, nhất là ở Trung Đồng nói chung tự khỏi sau 6 tháng và không di bệnh vào niêm mạc. Vi vậy, có thể không cần điều trị ngay nếu các tổn thương có kích thước nhỏ, ở chỗ không gây tổn hại và có vẻ đang liền, cần sử dụng antimon năm hóa trị (20 ngày) để điều trị những bệnh nhân có tổn thương lớn hoặc nhiều tổn thương, hoặc nếu tổn thương ở các vùng quan trọng về mặt thẩm mỹ hoặc chức năng (như cổ tay). Sự liền bệnh có thể không rõ ràng cho tới nhiều tuần sau khi điều trị kết thúc. Pentamidin hoặc amphotericin B được sử dụng trong những trường hợp thất bại. Các biện pháp điều trị khác cho những trường hợp bệnh ít trầm trọng hơn là các phương pháp vật lý (điều trị đông lạnh hoặc nhiệt tại chỗ, đốt điện, phẫu thuật cắt bỏ) và tiêm stibogluconat natri vào tổn thương. Bôi paromomycin cũng có thể có tác dụng. Các tổn thương cần được giữ sạch, và nếu bội nhiễm xuất hiện, phải sử dụng kháng sinh.
Bệnh do leishmania da tân thế giới
Các căn nguyên sạu đây gây nhiễm leishmania da Tân thế giới:
Nhóm L. mexicana: L. m.mexicana (Texas, Mexico, Trung Mỹ); L. m. amazonensis (lưu vực sống Amazon, Venezuela, Panama, Trinidad); các loài khác (Venezuela và cộng hòa Dominicana)
Nhóm leishmania (viannia): L.(V) braziliensis (trung và Nam Mỹ); L.(V) panamensis (Trung Mỹ và Đông bắc Nam Mỹ); và L. (V) guyanensis (Nam Mỹ).
Nhiễm L. mexicana và L. braziliensis nói chung liên quan đến các hoạt động trong rừng hoặc cư trú cạnh rừng. Các ổ L. panamensis tìm thấy cả ở rừng nhiệt đới và những nơi khô hạn hơn.
Phần lớn tổn thương da tân thế giới là những vết loét nhưng các tổn thương sùi, sẩn hoặc nốt cũng có thể xuất hiện. L. m.mexicana (loét “chiclero”) ở Yucatan và Trung Mỹ gây các tổn thương phá hủy ở sụn tai. Gần 80% tổn thương da của L. b.braziliensis tiến triển tới nhiễm leishmania da niêm mạc; một số dòng trong phức hợp L. braziliensis gây sưng chuỗi hạch lympho, và một số dòng L. m.mexicana và Nam Mỹ có thể gây nhiễm leishmania da lan tỏa.
Trong nhiễm L. mexicana tân thế giới ở Mexico và Trung Mỹ, các nốt hoặc vết loét đơn lẻ ở những nơi kín thường tự liền, nhưng có thể điều trị thử bằng metronidazol 750 mg ba lần/ngày, trong 10 ngày. Các tổn thượng trên tai, mắt, hoặc tay cần được điều trị bằng gluconat antimon natri, thường chỉ cần một đợt 12 - 14 ngày. Các thuốc điều trị khác đang được nghiên cứu là ketoconazol, intraconazol, các hợp chất đóng vỏ liposom, phối hợp stibogluconat natri và allopurinol, và paromomycin bôi tại chỗ. Các tổn thưong da mắc phải ở những vùng có bệnh leishmania da và niêm mạc có thể do L. braziliensis hoặc L. panamensis gây ra và cần được điều trị bằng một liệu trình stibogluconat natri đầy đủ.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh do Leishmania
Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.
Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)
Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.
Bệnh do amip
Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.
Bệnh giun chỉ Onchocera
Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.
Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)
Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.
Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.
Bệnh do Babesia
Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.
Nhiễm sán dây
Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.
Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa
Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.
Bệnh do Trypanosoma châu mỹ
Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.
Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.
Nhiễm coccidium và microsporidia
Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.
Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh
Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.
Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis
Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.
Bệnh ấu trùng di trú ở da
Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.
Bệnh giun đũa
Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.
Bệnh giun kim
Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.
Bệnh giun móc
Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.
Bệnh do nhiễm Giardia
Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.
Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)
Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.
Bệnh giun rồng
Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.
Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)
Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.
Nhiễm giun anisakia
Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.
Nhiễm leishmania nội tạng
Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.