Nhiễm giun anisakia

2016-05-27 09:15 AM

Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhiễm giun anisakia (Anisakiasis) là bệnh do các ấu trùng giun tròn anisakia xâm nhập vào thành dạ dày hoặc thành ruột gây nên. Trong thể cấp, bệnh có thể biểu hiện như bụng ngoại khoa; trong thể mạn tính, các triệu chứng nhẹ có thể kéo dài vài tuần cho tới vài năm.

Vật chủ cuối cùng của giun anisakia là các loại động vật có vú ở biển bao gồm cá voi, hải cẩu và cá heo. Trứng giun thải ra môi trường theo phân được các động vật giáp xác ăn vào; phát triển thành ấu trùng có khả năng gây bệnh cho mực, cá thu, cá mòi, cá tuyết, cá bơn cá đá, cá hồi, cá ngừ và các loại cá biển khác. Trong cơ thể cá, với tỷ lệ nhiễm bệnh có thể lên tới 80%, các ấu trùng giun đi vào các cơ và lây truyền từ cá sang cá theo dây chuyền thức ăn, cuối cùng gặp được động vật có vú ở biển và phát triển sang giai đoạn trưởng thành.

Người bị nhiễm bệnh khi nuốt phải các ấu trùng của giun trong cá biển hoặc mực khi ăn ở dạng sống, nấu chưa chín, muối, hoặc làm gỏi. Các ấu trùng giải phóng ra trong dạ dày, bám vào hoặc rúc một phần vào niêm mạc dạ dày hoặc ruột (thường ở ruột non, ít khi ở đại tràng), gây loét tại chỗ, phù nề, và hình thành các u hạt từ bạch cầu ưa acid; cuối cùng, các cá thể giun chết. Đôi khi ho và khạc giun ra ngoài hoặc giun xuyên thủng thành ruột, đi vào khoang bụng và di trú. Tuy nhiên, phần lớn ấu trùng có lẽ không trụ lại được trong đường tiêu hóa của người để gây bệnh và thải ra theo phân. Mặc dù các ấu trùng đôi khi phát triển đến giai đoạn trưởng thành, giun cái có khả năng sinh sản không thấy có ở người.

Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác. Các món ăn sống ở địa phương như sashimi ở Nhật Bản, gỏi cá mòi ở Hà Lan, và món seviche ở Châu Mỹ Latin là các cách truyền bệnh.

Triệu chứng và dấu hiệu

Đa số các trường hợp bệnh cấp là nhiễm anisakia dạ dày. Đôi khi, nhiễm bệnh cấp diễn biến thành mạn tính.

Nhiễm giun Anisakia ở dạ dày cấp

Trong vòng vài giờ kể từ khi nuốt phải ấu trùng giun, bệnh nhân có cảm giác buồn nôn, nôn và đau vùng thượng vị mỗi lúc một nặng. Các phản ứng dị ứng, bao gồm cả một vài trường hợp sốc phản vệ có thể xuất hiện, đau ngực và nôn ra máu hiếm gặp.

Nhiễm giun Anisakiasis ở ruột cấp tính

Trong vống 1- 7 ngày, đau quặn xuất hiện ở phần bụng dưới, thường khu trú ở vùng hồi manh tràng, đi kèm với ỉa chảy, buồn nôn, nôn, trướng bụng lan tỏa và sốt nhẹ.

Bệnh mạn tính

Trong vài tuần tới vài năm, các triệu chứrig có thể tiếp diễn giống như loét dạ dầy, viêm dạ dày, u dạ dày, tắc ruột, hoặc viêm ruột.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Xét nghiệm phân có thể thấy máu vi thể nhưng không có trứng giun. Tăng nhẹ số lượng bạch cầu và bạch cầu ái toan có thể xuất hiện. Các xét nghiệm huyết thanh ELISA và RAST có thể có ích nhưng không tin cậy trong thể bệnh mạn.

Chẩn đoán hình ảnh và nội soi

Trong bệnh cấp tính, soi dạ dày được ưu tiên do đôi khi có thể nhìn thấy các ấu trùng và loại bỏ ra khỏi dạ dày. Chụp X quang dạ dày có thể thấy ổ loét khu trú có phù nề, thành dày nham nhở, giảm nhu động, và cứng nhắc. Kỹ thuật chụp cản quang đôi khi có thể cho hình ảnh ấu trùng dạng sợi dây. Chụp ruột non có thể thấy niêm mạc dầy và các đoạn co hẹp với khoảng giãn ở trên. Siêu âm các tổn thương dạ dày và ruột cũng có thể có ích.

Trong giai đoạn mạn tính, chụp X quang và soi dạ dày - nhưng không áp dụng cho ruột - có thể có ích. Chẩn đoán thường chỉ được xác định khi phẫu thuật ổ bụng và loại bỏ giun gây bệnh.

Phòng ngừa và điều trị

Phòng bệnh bằng cách tránh ăn mực hoặc cá biển còn sống hoặc chưa nấu chín, đặc biệt là cá hồi, cá đá, cá mòi và cá thu; nên loại bỏ sớm nội tạng cá. Các ấu trùng trong cá dưới dạng giun xoắn, hoặc cuộn chặt, không màu trong các ổ tròn 3 mm, hoặc các ấu trùng màu đỏ tía hoặc tăng sắc tố nằm tự do trong cơ hoặc nội tạng, rất khó nhìn. Các ấu trùng bị chết ở nhiệt độ khoảng 60°C hoặc làm lạnh đến - 20°C trong 24 giờ (một số tác giả khuyên 7 ngày). Các biện pháp hun khói với nhiệt độ không lên đến 60°C ngâm trong giấm, và ướp muối, không tin cậy được.

Bệnh không có thuốc điều trị. Trừ khi các ấu trùng có thể loại bỏ bằng soi dạ dày hoặc đại tràng ông mềm, điều trị các tổn thương cấp tính và mạn tính chỉ giới hạn ở các biện pháp triệu chứng; các triệu chứng nói chung tiến triển trong 1- 2 tuần. Phẫu thuật lấy giun có thể cần thiết trong những trường hợp nặng.

Bài viết cùng chuyên mục

Sốt rét

Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.

Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Bệnh do Trypanosoma châu mỹ

Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Bệnh do nhiễm Giardia

Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.

Nhiễm coccidium và microsporidia

Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.

Bệnh giun móc

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.

Bệnh nang chùm

Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.

Bệnh do amip

Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.

Bệnh giun chỉ Onchocera

Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.

Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp

Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.

Bệnh do Toxoplasma

Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.

Bệnh do Babesia

Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.

Bệnh giun xoắn

Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.

Nhiễm leishmania nội tạng

Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.

Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.

Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis

Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.

Bệnh giun đũa

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)

Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.

Bệnh do Leishmania

Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Bệnh giun rồng

Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.

Bệnh ấu trùng di trú ở da

Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.