Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis

2016-05-27 09:39 AM

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Angiostrongylus cantonensis, một loại giun tròn của chuột, là tác nhân gây viêm não - màng não tăng bạch cầu ái toan. Bệnh được thông báo từ Hawaii và các đảo Thái Bình Dương khác, Đông Nam Á, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Australia, Ai Cập, Madagascar, Nigeria, Bombay, CuBa, Puerto Rico, Bahamas, Brazil, và New Orleans.

Người bị nhiễm bệnh khi nuốt phải các ấu trùng gây bệnh trong các thức ăn chưa nấu - các loài ốc trung gian truyền bệnh (các loại sên) hòặc các vật chủ trung gian cơ giới đã ăn các loài ốc (cua, tôm, cá). Lá rau có nhiễm các loài ốc nhỏ hoặc nước nhớt thải của ốc cũng có thể là nguồn bệnh, kể cả ngón tay khi nhặt ốc và chuẩn bị ốc để nấu ốc nhiễm bệnh khi ăn phải các ấu trùng thải theo phân của chuột - vật chủ cuối củng của giun.

Thời kỳ ủ bệnh của người kéo dài 1- 3 tuần. Ở các ấu trùng giun (0,5 x 0,025 mm) xâm nhập hệ thần kinh trung ương, và khi di trú gây ra các tổn thương nặng ở tổ chức não; khi giun chết phản ứng viêm tại chỗ xuất hiện.

Các biểu hiện lâm sàng thường gặp là các triệu chứng viêm não - màng não, bao gồm đau đầu dữ dội, sốt, cổ cứng, buồn nôn và nôn, và nhiều dấu hiệu thần kinh, đặc biệt là bệnh lý các dây thần kinh sọ não không đối xứng nhất thời. Các cá thể giun trong tủy sống có thể gây rối loạn cảm giác ở thân hoặc các chi, giun cũng được tìm thấy trong mắt.

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy. Tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi cùng với tăng nhẹ số lượng bạch cầu thường gặp. Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa bệnh tật có một loại xét nghiệm huyết thanh học để chẩn đoán CT Scan và MRI có thể cho thấy tổn thương hệ thần kinh trung ương.

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm màng não do lao, coccidioidium hoặc viêm màng não nước trong, giang mai; u lympho; giun gai, ấu trùng sán lợn, sán lá phổi, nhiễm echinococcus, và sán máng do Schistosoma japonicum.

Bệnh chưa có điều trị đặc hiệu; tuy nhiên, có thể điều trị thử bằng các thuốc levamisol, albendazol, thiabendazol (25 mg/kg, ba lần /ngày; trong 3 ngày); mebendazol (100 mg hai lần một ngày, trong 5 ngày), hoặc ivermectin. Theo lý thuyết, ấu trùng chết có thể làm các phản ứng viêm của hệ thần kinh trung ương nặng thêm. Điều trị triệu chứng bằng thuốc giảm đau và corticosteroid có thể cần thiết. Bệnh thường kéo dài vài tuần tới vài tháng, ấu trùng giun chết, và bệnh nhân khỏi tự phát, thường không có di chứng. Tuy nhiên, một số trường hợp tử vong đã được ghi nhận.

Phòng ngừa bệnh bằng kiểm soát đàn chuột; nấu ốc, tôm, cá và cua trong 5 phút hoặc làm đông lạnh (- 15°C trong 24 giờ); và xem kỹ loại bỏ ốc bám trên rau trước khi ăn. Rửa rau không loại trừ hết được các ấu trùng trong nhơt ốc bám trên lá.

Bài viết cùng chuyên mục

Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp

Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.

Bệnh giun đũa

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Bệnh giun rồng

Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.

Bệnh giun chỉ Loa loa

Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.

Nhiễm leishmania nội tạng

Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)

Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Bệnh ấu trùng di trú ở da

Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.

Bệnh do amip

Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.

Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)

Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.

Bệnh nang túi

Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.

Sốt rét

Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.

Bệnh do Balantidium (balantidiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.

Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa

Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.

Bệnh giun chỉ Onchocera

Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Bệnh giun xoắn

Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.

Bệnh giun chỉ

Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara

Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.

Bệnh do Trypanosoma châu phi

Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.

Bệnh giun kim

Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.

Bệnh giun Gnathostoma

Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.

Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis

Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.