- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán
- Bệnh giun Gnathostoma
Bệnh giun Gnathostoma
Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh giun gnathostoma, phần lớn do ấu trùng giun tròn Gnathostoma spinigerum gây ra, ít khi có căn nguyên là các loại gnathostoma khác. Bệnh gặp nhiều nhất ở Thái Lan và Nhật Bản, nhưng cũng được thông báo ở Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ, Mexico, Ecuador, Israel, và Đông Phi. Ở Hoa Kỳ, mặc dù G. spinigerum đôi khi được tìm thấy ở chồn, bệnh chưa gặp ở người. Trứng giun thải theo phân của vật chủ cuối cùng là chó và mèo hoang và nuôi trong nhà, có khả năng lây nhiễm cho động vật chân đốt (bọ chét nước). Các vật chủ thứ phát ăn các động vật chân đốt này và các ấu trùng giun tạo kén trong các mô của các vật chủ này; người bị nhiễm bệnh khi nuốt phải các ấu trùng trong các thức ăn còn sống, ướp muối hoặc nấu chưa chín từ cá nước ngọt, gà hoặc một loại chim khác, ếch, hoặc lợn. Sự nhiễm bệnh cũng xảy ra khi nuốt, phải các động vật chân đốt trong nước.
Trong vòng 24 - 48 giờ, ấu trùng xâm nhập qua thành ruột có thể gây đau cấp tính vùng thượng vị, nôn, nổi mẩn ngoài da, và tăng bạch cầu ái toan. Sau đó giun di trú đến mô dưới da và các mô khác nhưng không trưởng thành được. Biểu hiện thường gặp nhất là tổn thương phủ và ngứa dưới da, kích thước tới 25 cm, đôi khi đi kèm với cảm giác đau nhói. Trong thời gian vài tuần tới vài năm, khối phù này có thể tồn tại ở một chỗ trong vài ngày hoặc vài tuần, hoặc di chuyển không ngừng. Đôi khi có thể nhìn thấy giun ở dưới da.
Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn, và phù họng kèm khó thở đã được thông báo. Giun xâm nhập vào não có thể dẫn đến viêm não - màng não tăng bạch cầu ái toan hoặc xuất huyết dưới nhện. Giun xâm nhập vào tủy sống có thể dẫn đến viêm tủy hoặc bệnh lý rễ thần kinh.
Chẩn đoán cuối cùng đôi khi chỉ xác định được qua phẫu thuật lấy giun nếu giun xuất hiện gần bề mặt da. Tăng cao bạch cầu ái toan thường gặp, trừ những trường hợp giun nằm trong hệ thần kinh trung ương. Chẩn đoán huyết thanh học bằng phương pháp cố định miễn dịch (immunoblot) hoặc ELISA tỏ ra có triển vọng. Các test da và xét nghiệm huyết thanh học khác là không tin cậy.
Điều trị bằng albendazol có thể có hiệu quả. Trong số các ca bệnh được chẩn đoán định hướng, 94 trên 100 người có biểu hiện khỏi bệnh sau một liệu trình điều trị mỗi ngày 400 mg hoặc 800 mg (chia nhiều liều) trong 21 ngày. ấu trùng chết dần trong 1- 2 tuần. Ivermectin được thông báo có hiệu quả ở động vật. Điều trị prednisolon từng đợt có tác dụng giảm tạm thời các triệu chứng.
Bài viết cùng chuyên mục
Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis
Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.
Bệnh ấu trùng di trú ở da
Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.
Bệnh giun xoắn
Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.
Bệnh giun chỉ Loa loa
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.
Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis
Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.
Sốt rét
Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.
Bệnh giun rồng
Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.
Bệnh do Toxoplasma
Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.
Bệnh giun lươn
Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân, là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun.
Bệnh do nhiễm Giardia
Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.
Bệnh do Trypanosoma châu phi
Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.
Nhiễm sán dây
Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.
Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)
Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.
Bệnh nang túi
Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.
Nhiễm Leishmania da
Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.
Nhiễm giun anisakia
Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.
Bệnh do amip
Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.
Bệnh giun đũa
Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.
Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)
Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó
Nhiễm coccidium và microsporidia
Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.
Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)
Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.
Nhiễm leishmania nội tạng
Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.
Bệnh giun chỉ Onchocera
Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.
Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara
Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.