- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán
- Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh
Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh
Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Viêm màng não - não tiên phát do amip
Viêm màng não - não tiên phát do amip là một bệnh viêm màng não - não mủ tối cấp tương tự như viêm màng não do vi khuẩn và nhanh chóng dẫn tới tử vong. Phần lớn bệnh xảy ra ở trẻ em và người trẻ tuổi. Căn nguyên gây bệnh thường gặp nhất là amip roi sống tự do Naegleria fowleri. Balamuthia mandrillaris, một loại amip sống tự do mới được phát hiện (trước kia được coi là một loài amip leptomyxid), cũng được công nhận là căn nguyên gây viêm màng não - não do amip ở cả người khỏe mạnh và người suy giảm miễn dịch. Các loài acanthamoeba gây viêm não u hạt đa ổ ở những người suy giảm miễn dịch, bao gồm cả những bệnh nhân AIDS. Balaihuthia mandrillaris mới đây được phân lập từ những bệnh nhân AIDS.
N. fowleri là loài vi sinh ưa nhiệt tìm thấy trong các hồ nước ngọt bị ô nhiêm và ấm, các nguồn nước sinh hoạt, các bể bơi, các nguồn nước nóng và cống rãnh. Phần lớn bệnh nhân có tiền sử phơi nhiễm với nước ngọt; bụi cũng có khả năng là nguồn bệnh. Xét nghiệm dịch mũi và dịch họng cho thấy có tình trạng mang amip ở người, và các thăm dò huyết thanh học gợi ý rằng có các trường hợp nhiễm bệnh không triệu chứng.
Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày. Các triệụ chứng ban đầu bao gồm đau đầu, sốt, tinh thần chậm chạp thường đi cùng với viêm mũi và viêm họng. Nôn, rối loạn tinh thần, và các dấu hiệu khác của viêm màng não - não xuất hiện trong vòng 1 hoặc 2 ngày, tiếp theo là hôn mê và sau đó là tử vong ở ngày thứ năm hoặc thứ sáu. Trên khám nghiệm tử thi, một số nạn nhân có viêm cơ tim không đặc hiệu.
Chọc dò tủy sống hoặc não thất cho thấy dịch não tủy chứa vài trăm tới 25.000 bạch cầu/µl (50 - 100% bạch cầu đa nhân) và hồng cầu (tới vài nghìn/µl). Protein thường tăng, và glucose bình thường hoặc giảm vừa. Nếu các xét nghiệm thông thường tìm vi khuẩn và nấm âm tính, dịch não tủy phải được xét nghiệm tìm amip sống tự do để chẩn đoán xác định. Xét nghiệm lam ướt bằng kính hiển vi quang học thông thường với góc mở giới hạn hoặc che màng tôi sẽ làm tăng độ tương phản và độ khúc xạ, giai đoạn ủ ấm không cần thiết. Không nên ly tâm hoặc giữ dịch não tủy trong tủ lạnh, do các amip vì thế sẽ bị bất động. Sự chuyển động nhanh rihẹn của amip giúp phân biệt chúng với các loại tế bào bạch cầu có hình dạng rất giống amip. Cần thực hiện các kỹ thuật nhuộm, nuôi cấy và tiêm truyền cho chuột. Các xét nghiệm huyết thanh học tìm kháng thể và kháng nguyên lưu hành đang được nghiên cứu.
Việc xác định loài chính xác được thực hiện trên cơ sở hình thái, xác định sự chuyển dạng các roi (chỉ thấy ở naegleria) và một số phương pháp miễn dịch khác.
Chỉ có bốn trường hợp khỏi bệnh chính xác được thông báo. Một bệnh nhân được điều trị bằng amphotericin B tĩnh mạch và nội tủy, và một trường hợp điều trị bằng amphotericin B phối hợp với miconazol và rifampin. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy có tác dụng tăng cường đáng kể giữa amphotericin B và tetracyclin hoặc rifampin. Hiện không có điều trị gì cho bệnh do B. mandrillaris.
Bệnh do amip acanthamoeba
Các amip sống tự do (thuộc giống acanthamoeba có thể tìm thấy trong đất và nước ngọt, nước lợ và nước nóng ở dạng amip thực bào (15 - 35 µm) hoặc kén (10 - 25µm). Một số loài được xác định có khả năng gây bệnh ở người, là căn nguyên của một số hội chứng khó nhận định: (1) viêm não u hạt hoại tử ổ bán cấp và mạn tính gây tử vong sau vài tuần tới vài tháng, (2) tổn thương da giống nhiễm nấm sâu, (3) u hạt lan tỏa ở nhiều tổ chức, và (4) viêm tiền phòng hoặc viêm giác mạc mạn tính có thể dẫn tới mù lòa. Đường vào của amip có thể bao gồm da, mắt hoặc đường hô hấp. Tình trạng mang cộng sinh ở mũi đã được xác định. Các bệnh nhân suy giảm miễn dịch, bao gồm cả những người nhiễm HIV, có thể có tính cảm nhiễm cao.
Trong hội chứng viêm não, tăng bạch cầu lympho trong dịch não tủy đã được mô tả. Chẩn đoán trước tử vong được thực hiện qua các bệnh phẩm sinh thiết. Chẩn đoán đặc hiệu dựa trên khả năng bắt màu miễn dịch huỳnh quang của amip trong các bệnh phẩm từ các tổ chức. Không có điều trị nào có hiệu quả, nhưng ketoconazol, miconazol, các sulfonamid, clotrimazol, pentamidin, paromomycin, neomycin, amphotericin B, hoặc flucytosin có thể được thử nghiệm.
Hàng trăm ca viêm giác mạc do acanthamoeba đã được thông báo, phần lớn liên quan tới mang kính áp tròng, một vài ca do chấn thương xuyên giác mạc hoặc phơi nhiễm với nước bẩn. Phương pháp soi đồng tiêu điểm có độ hiển thị cao được phát hiện gần dây cho phép xác định nhanh và dễ dàng với độ nhạy cao kén và các amip thực bào. Các biểu hiện lâm sàng gợi ý viêm giác mạc do acanthamoeba là (1) đau nhức mắt nặng, (2) khám mắt có xâm nhiễm dạng vòng rìa giác mạc từng phần hoặc toàn phần, (3) tổn thương biểu mô giác mạc tái phát, và (4) tổn thương giác mạc không đáp ứng với các điều trị thông thường. Thường loại viêm giác mạc này tiến triển chậm, qua nhiều tháng. Chẩn đoán có thể được khẳng định qua việc nạo giác mạc nhiều lần bằng tăm bông hoặc cấy nạo có đầu platin. Dịch nạo giác mạc sau đó được nhuộm Giemsa hoặc trichrom hoặc bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang rồi soi và được nuôi cấy trên mạch không chứa chất dinh dưỡng có Escherichia coli.
Điều trị viêm giác mạc do acanthamoeba đã có nhiều tiến bộ, phần lớn số bệnh nhân có thể phục hồi thị lực tốt và khỏi hoàn toàn nếu được điều trị sớm. Điều trị digluconat chlorhexidin 0,02% tại chỗ cùng với propamidin có hiệu quả cao hơn biguanid polyhexamethylen cộng với propamidin. Có thể bổ sung itraconazol đường uống đối với viêm giác mạc sâu. Sử dụng corticosteroid còn gây tranh cãi. Mặc dù được điều trị thuốc, nhiều khi cần nạo vét giác mạc để loại bỏ tổ chức đã nhiễm bệnh, ghép giác mạt có thể được sử dụng cho những mắt không viêm.
Để phòng bệnh, cần ngâm kính áp tròng vào các loại dung dịch tẩy trùng trong ít nhất 6 giờ.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh giun chỉ Onchocera
Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.
Bệnh giun xoắn
Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.
Bệnh giun kim
Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.
Bệnh do Babesia
Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.
Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)
Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.
Bệnh giun rồng
Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.
Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp
Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.
Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis
Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.
Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.
Bệnh nang túi
Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.
Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa
Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.
Nhiễm Leishmania da
Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.
Bệnh do Leishmania
Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.
Bệnh nang chùm
Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.
Bệnh ấu trùng di trú ở da
Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.
Sốt rét
Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.
Bệnh giun chỉ Loa loa
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.
Nhiễm giun anisakia
Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.
Bệnh do Balantidium (balantidiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.
Bệnh giun móc
Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.
Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.
Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)
Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.
Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis
Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.
Bệnh do Toxoplasma
Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.