- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các điểm thiết yếu đế chẩn đoán
Xảy ra từ 48 giờ trở lên sau khi nhập viện.
Có một hoặc nhiều triệu chứng lâm sàng (sốt, ho, đờm mủ) trên hầu hết các bệnh nhân.
Đặc biệt thường gặp ở bệnh nhân được điều trị tại nơi điều trị tăng cường và thở mảy.
X quang có hình thâm nhiễm phổi.
Các vấn đề chung
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện. Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện là nguyên nhân thứ hai thường gặp nhất trong nhiễm khuẩn bệnh viện, có tỷ lệ tử vong khoảng 30%. Viêm phổi mắc phải ở khoa điều trị tăng cường và viêm phổi ở bệnh nhân thở máy (viêm phổi liên quan thờ máy) còn có tử vong cao hơn, chừng 48%. Ở bệnh nhân có hội chứng suy hô hấp cấp (ARDS) tử vong tới 67%.
Yếu tố gây bệnh thường gặp nhất trong viêm phổi bệnh viện là P. aeruginosa tụ cầu vàng, Enterobacter, Klebsiella pneumonae và E.Coli, Proteus, Serratia, tụ cầu vàng coagulase âm tính, liên cầu và Citrobacter. Nhiễm khuẩn do P. aeruginosa và Acinetobacter thường là nguyên nhấn viêm phổi của các bệnh nhân ốm liệt giường mà trước đó đã điều trị kháng sinh, các bệnh nhân thở máy. Các vi khuẩn kỵ khí (bacteroides, liên cầu kỵ khí, Fusobacterium) có thể gây viêm phổi mắc phải ở bệnh viện. Mycobacterium, nấm, chlamydiae, virus, ricketsiae và các sinh vật nguyên sinh ít khi gây viêm phổi bệnh viện.
Các vi khuẩn cư tru ở hầu họng và có thể cả miệng là bước quan trọng nhất trong sinh bệnh học viêm phổi ở bệnh viện. Các vi khuẩn cư trú ở hầu họng được các yếu tố bên ngoài giúp thêm (các dụng cụ làm trên đường hô hấp trên, các ống nội khí quản, ống hút mũi dạ dày, lây nhiễm do tay bẩn, dụng cụ bẩn, điều trị bằng kháng sinh phổ rộng làm cho vi khuẩn kháng thuốc) và các yếu tố từ phía người bệnh (suy dinh dưỡng, tuổi cao, có bệnh phổi cũ và các bệnh hệ thống, rối loạn khả năng nuốt, trạng thái giảm ý thức), hít phải các chất xuất tiết từ dạ dày, hầu họng đã bị nhiễm khuẩn vi khuẩn sẽ lan truyền xuống đường hô hấp dưới gây viêm, phổi ở phân thùy hay thùy bị lây nhiễm. Các cơ chế đề kháng cơ học và tế bào kém đi ở phổi làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới khi hít phải các chất đó. Đặt ống nội khí quản tăng nguy cơ nhiễm khuẩn hô hấp dưới do tắc cơ học khí quản, hệ thống thanh thải nhầy lông của khí phế quản không hoạt động được, bị tổn thương, trở ngại cho ho khạc. Sự dính kết của vi khuẩn như Pseudomonas với biểu mô phế quản làm cho vi khuẩn khó bị thanh thải ra ngoài.
Các cơ chế gây bệnh ít quan trọng hơn của viêm phổi bệnh viện còn có hít phải thuốc khí dung nhiễm khuẩn và vi khuẩn lan truyền theo đường máu.
Triệu chứng và dấu hiệu
Chẩn đoán lâm sàng chính xác viêm phổi bệnh viện rất khó vì không có test chẩn đoán chuẩn. Ngoài ra ở hầu hết bệnh nhân có một hoặc nhiều dấu hiệu lâm sàng (sốt, tăng bạch cầu, đờm mủ, trên phim X quang có hình thâm nhiễm phổi mới).
Xét nghiệm
Việc tối thiểu cần nghiên cứu khi nghi có viêm phổi bệnh viện là có tiền sử bệnh lâu, khám thực thể, cấy máu 2 lần, chụp X quang phổi. Những thông tin này trong đa số trường hợp giúp cho chẩn đoán viêm phổi bệnh viện nhưng nhiều trường hợp khác không giúp được gì. Các xét nghiệm hồng bạch cầu và các thử nghiệm hóa sinh không có giá trị chẩn đoán đặc hiệu viêm phổi bệnh viện. Nếu ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi mà nghi có viêm phổi cộng đồng thì nên chọc dịch làm xét nghiệm, nhuộm gram soi trực tiếp và nuôi cấy vi khuẩn.
Xét nghiệm đờm khạc ra cũng không giúp cho chẩn đoán viêm phổi bệnh viện. Nhuộm gram cũng như cấy đờm không cho biết sự nhậy cảm cũng như độ đặc hiệu trong chẩn đoán vi khuẩn của viêm phổi bệnh viện. Cấy đờm phát hiện ra vi khuẩn gây bệnh thường làm sai lạc chẩn đoán dù có nhận dạng được vi khuẩn khi cấy đờm khạc ra hay hứt ra được cũng không chứng tỏ được ràng vi khuẩn đó là yếu tố gây bệnh ở đường hô hấp dưới. Nếu viêm phổi bệnh viện nghi do Legionella pneumophila thì nên nhuộm kháng thể huỳnh quang trực tiếp, Soi đờm trực tiếp hay nuôi cấy đối với trực khuẩn lao và một số nấm thì có thể giúp chẩn đoán nhưng như đã nêu trên, những yếu tố này ít gặp trong các nguyên nhân gây viêm phổi bệnh viện.
Lấy các chất xuất tiết đường hô hấp dưới để xác định căn nguyên gây viêm phổi bệnh viện thì khó nếu không nói là không thể được vì sự lây nhiễm của các yếu tố gây bệnh từ đường hô hấp trên nguyên nhân của viêm phổi bệnh viện trong điều kiện tốt nhất có thể xác định được trong khoảng một nửa số trường hợp.
Chẩn đoán hình ảnh
Theo một nghiên cứu các thâm nhiễm phổi chỉ thấy trong 78% số bệnh nhân viêm phổi bệnh viện do thở máy. Các hình ảnh rất không đặc hiệu, các hình ảnh giống hệt viêm phổi bệnh viện là xẹp phổi, phù phổi, bệnh phổi hít, chảy máu phổi, tràn dịch màng phổi và tác nghẽn mạch phổi.
Các xét nghiệm đặc biệt
Soi phế quản ống mềm có thể giúp ích trong viêm phổi bệnh viện đặc biệt là viêm phổi bệnh viện do thở máy. Các kỹ thuật của soi phế quản ống mềm gồm rửa phế quản phế nang, chải phế quăn. Độ nhậy và độ đặc hiệu của các kỹ thuật này nếu người làm có kinh nghiệm là 65% và 69%. Khi đã điều trị kháng sinh trước rồí thì độ nhậy và độ đặc hiệu giảm xuống chỉ còn 36 - 50%. Các kết qủa tốt nhất là thu được ở bệnh nhân đã ngừng điều trị kháng sinh 48 giờ. Những giới hạn khác của thủ thuật là về thời gian và sự tốn phí để làm thủ thuật, phải chờ đợi kết qủa nuôi cấy và kết qủa về độ nhậy cảm của vi khuẩn.
Điều trị
Điều trị viêm phổi bệnh viện cũng giống điều trị viêm phổi ở cộng đồng, đó là thường dựa trên kinh nghiệm, vì bệnh có tử vong cao nên điều trị phải bắt đầu ngay khi nghi ngờ có viêm phổi. Điều trị đầu tiên phải cho kháng sinh phổ rộng phù hợp với lâm sàng. Không có một qui ước thống nhất nào về chế độ kháng sinh dựa theo kinh nghiệm nào tốt nhất cho viêm phổi bệnh viện. Điều trị theo kinh nghiệm cho viêm phổi bệnh viện thể nhẹ và thể vừa cho bệnh nhân ở ngoài khoa điều trị tăng cường là cho một kháng sinh beta lactam như cephalosporin thể hệ hai, một cephalosporin thế hệ ba không có tác dụng kháng trùng mủ xanh, imipemem phối hợp với cilastatin hay ampicillin phối hợp với sulbactam.
Điều trị theo kinh nghiệm cho bệnh nhân viêm phổi trong khoa điều trị tăng cường hay do thở máy nên phối hợp kháng sinh trực tiếp chống hầu hết các vi sinh có độc lực đặc biệt là P. aeruginosa, Acinetobacter và Enterobacter. Chế độ hầu hết thường dùng là 1 kháng sinh beta lactam phổ rộng (một penicillin kháng vi khuẩn mủ xanh, một Cephalosporin kháng mủ xanh thế hệ ba hay imipenem - cilastatin) cộng với một aminoglycosid. Sau 24 - 48 giờ khi có kết qủa đờm máu, cấy dịch màng phổi có thể cho kháng sinh phổ hẹp hơn. Điều trị viêm phổi do vi khuẩn gram âm có lẽ nên ít nhất trong 14 ngày. Fluoroquinolon có thể dùng để củng cố điều trị và giúp bệnh nhân sớm xuất viện.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm phổi
Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.
Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick
Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.
Bệnh do mycobacteria không phải lao
Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.
Giãn phế quản
Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.
Ung thư trung biểu mô màng phổi
Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.
Ung thư phổi thứ phát
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.
Tràn dịch màng phổi
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Các khối u trung thất
CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.
Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị
Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Các hội chứng hít sặc ở phổi
Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.
Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi
Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.
Các hội chứng chảy máu phế nang
Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.
Các khối u lành tính của phổi
Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.
Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan
Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao
Viêm tắc tiểu phế quản
Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.
Bệnh huyết khối tắc mạch phổi
Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.
Nốt phổi đơn độc
Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.
Viêm màng phổi
Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.
Bệnh phổi do thuốc
Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.
Các rối loạn thở liên quan đến ngủ
Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.
Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng
Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.
Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản
Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.
Các bệnh phổi kẽ
Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.
Tắc đường hô hấp
Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.