Viêm phổi
Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhận định chung
Viêm phổi tiếp tục là vấn đề quan trọng của y tế dù đã có nhiều loại kháng sinh mạnh có tác dụng. Vi sinh vật tới đường hô hấp dưới do hít phải các dịch tiết đường mũi họng có nhiều chủng vi khuẩn, khi hít các thuốc khí dung đã bị nhiễm khuẩn hay do vi khuẩn lan truyền theo đường máu.
Trước đây viêm phổi được xếp làm hai loại "điển hình" (do vi khuẩn) hoặc "không điển hình" (không do vi khuẩn). Viêm phổi do vi khuẩn (ví dụ do phế cầu) có các dấu hiệu đặc trưng như sốt, run, ớn lạnh, đờm mủ, khám thực thể có hội chứng đông đặc phổi, tăng bạch cầu, thâm nhiễm thùy hay thâm nhiễm từng đám trên phim X quang phổi. Viêm phổi không điển hình (ví dụ do Mycoplasma hay Chlamydia pneumonia) đặc trưng bởi các triệu chứng không có gì nổi bật, dấu hiệu thực thể nghèo nàn, đờm không có mủ, bạch cầu không tăng, không có dấu hiệụ đông đặc phổi trên phim X quang. Ngày nay những điều đó không có bất kỳ giá trị thực tiễn nào vì có sự gối chồng lên nhau các biểu hiện về lâm sàng, xét nghiệm, X quang của các viêm phổi, điều này không làm mất đi sự quan trọng của việc hỏi tiền sử bệnh và khám thực thể cặn kẽ trong chẩn đoán viêm phổi. Thực vậy, cả hai việc đó rất có ích vì cung cấp các chứng cứ để phát hiện nguyên nhân. Với quan điểm thực tiễn ngày, nay người ta hay phân loại viêm phổi thành viêm phổi mắc phải ở cộng đồng và viêm phổi mắc phải ở bệnh viện.
Tiếp cận với người bệnh còn khả năng miễn dịch có thể bị viêm phổi
Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi. Xây dựng một chẩn đoán nguyên nhân đặc hiệu của viêm phổi thường khó. Trong hầu hết các trường hợp cả viêm phổi mắc phải ở cộng đồng và viêm phổi mắc phải ở bệnh viện, điều trị thường dựa trên kinh nghiệm lấy đờm nhuộm gram và cấy tìm vi khuẩn trong thực tiễn hàng ngày để tìm nguyên nhân viêm phổi thì không có giá trị chứng minh và tốn kém. Giá trị chủ yếu của xét nghiệm đờm là để loại trừ một số vi sinh vật như trực khuẩn lao, nấm, legionella và pneumocystis carinii bằng soi trực tiếp và nuôi cấy. Như vậy xét nghiệm đờm tìm nguyên nhân nhiễm khuẩn có giá trị dự đoán âm tính hơn là dương tính. Thêm nữa, cấy đờm tìm độ nhạy với kháng sinh có thể giúp phát hiện loại vi khuẩn đề kháng với các kháng sinh đặc biệt nào đó. Cấy đờm một cách thường quy tìm virus gây bệnh thường không làm.
Các thử nghiệm máu thường quy như xét nghiệm điện giải, chức năng gan không có giá trị trong lượng giá đầu tiên của viêm phổi. Đếm hồng bạch cầu chỉ có giá trị phụ. Nó chỉ giúp cho việc xác định bệnh nhân hào nên nằm điều trị tại bệnh viện. Đo khí máu có chỉ định nếu nghi có suy hô hấp. Chẩn đoán huyết thanh không giúp gì cho chẩn đoán viêm phổi lúc ban đầu và thường chỉ làm khi có những lý do về dịch tễ.
Sự quy nạp đờm nên làm nếu xét nghiệm đờm được coi là quan trọng để loại trừ một số vi sinh gây bệnh và nếu người bệnh không khạc ra được đủ lượng đờm làm xét nghiệm. Đầu tiên phải súc miệng bằng nước sạch rồi bệnh nhân phải thở sâu nhiều cái rồi hít vào sâu trước khi ho mạnh. Đồng thời làm vỗ ở phía sau lưng chỗ các thùy dưới của phổi để giúp cho ho khạc được dễ. Cảc kỹ thuật bổ sung gồm vỗ và rung lồng ngực, thở hít khi dùng nước trắng bằng khí dung siêu âm qua một mặt nạ, hít các thuốc giãn phế quản giống thần kinh giao cảm, thở áp lực dương tính gián đoạn (IPPB) và phối hợp tất cả các biện pháp đó.
Khi xét nghiệm đờm khạc ra phải phân biệt các vi khuẩn gây bệnh từ đường hô hấp dưới với các vi khuẩn cư trú ở hầu họng, ví dụ vi khuẩn gram âm và nấm như Candidaalbicans và các chủng Aspergillus tìm thấy khi soi đờm trực tiếp có thể là các loại có sẵn ở hầu họng chứ không phải là do nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới. Nếu không tìm thấy vi khuẩn khi nhuộm gram lúc soi đờm trực tiếp ở bệnh nhân viêm phổi có thể là do phổi bị nhiễm virus, mycoplasma pneumoniae, chlamydia, legionella, vi khuẩn kỵ khí, nấm hay trực khuẩn lao.
Phải nhấn mạnh là chần đoán viêm phổi không thể dựa duy nhất vào các kết qủa cấy đờm bệnh nhân khạc ra,.
Ở các bệnh nhân bị bệnh nên cấy máu trước khi bắt đầu điều trị kháng sinh, nếu cấy máu dương tính, vi sinh gây bệnh được nhận định chắc chắn. Thủ thuật chọc lồng ngực nên làm ở hầu hết các trường hợp nghi viêm phổi do vi khuẩn nếu có tràn dịch màng phổi. Nhuộm gram, soi trực tiếp và nuôi cấy dịch màng phổi có thể phát hiện vi sinh gây nên bệnh. Dịch màng phổi có chẩn đoán đặc trưng của mủ màng phổi hầu hết chỉ định mở màng phổi.
Điều trị kháng sinh nên bắt đầu sau khi đã hoàn tất chẩn đoán. Hầu hết các trường hợp điều trị kháng sinh lúc đầu chỉ dựa trên kinh nghiệm vì về lâm sàng và soi đờm trực tiếp (nhuộm gram) lúc ban đầu không cho thấy được tác nhân nhiễm khuẩn đặc hiệu gây bệnh. Nếu thầy thuốc thấy cần phải nhận dạng vi sinh gây bệnh thật chính xác trước khi bắt đầu điều trị kháng sinh thì phải dùng các phương pháp như soi phế quản ống mềm, rửa và chải phế quản phế nang.
Bài viết cùng chuyên mục
Các hội chứng hít sặc ở phổi
Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.
Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan
Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao
Hen phế quản
Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.
Tắc đường hô hấp
Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.
Viêm tắc tiểu phế quản
Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.
Hội chứng tăng thông khí
Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.
Hít phải khói
Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.
Thở không khí ô nhiễm
Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.
Viêm khí phế quản cấp
Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.
Tràn dịch màng phổi
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản
Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.
Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)
Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.
Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng
Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.
Tăng áp lực động mạch phổi
Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.
Các rối loạn thở liên quan đến ngủ
Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.
Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản
Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.
Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi
Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.
Ung thư trung biểu mô màng phổi
Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.
Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick
Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.
Các khối u trung thất
CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.
Lao phổi: chẩn đoán và điều trị
Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.
Các khối u lành tính của phổi
Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.
Các hội chứng chảy máu phế nang
Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.
Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi
Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.