Ung thư phổi thứ phát

2016-10-11 03:53 PM

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Ung thư phổi thứ phát là biểu hiện của các di căn từ các ung thư ác tính ở ngoài phổi lan tới phổi bằng đường mạch máu, đường bạch huyết hay lan truyền trực tiếp. Mọi ung thứ đều có thể di cấn tới phổi. Các di căn tới phổi thường qua động mạch phổi và có tính chất điển hình biểu hiện trên phim X quang lồng ngực như các khối nhiều loại. Các di căn tới phổi trong 20 - 54% làm bệnh nhân chết vì các bệnh ác tính.

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết. Tắc mạch do khối u từ ung thư ngoài phổi (carcinoma tế bào thận, carcinoma tế bào gan, ung thư rau) là con đường không hay gặp của ung thư lan vào phổi. Các di căn trong lòng phế quản gặp với tỷ lệ dưới 5% các bệnh nhân chết vì ung thư ngoài phổi; hầu hết các di căn là trong nhu mô phổi, carcinoma thận, ngực, đại tràng, cổ và ung thư hắc sắc tố ác tính là các khối u có thể hay gây di căn trong lòng phế quản nhất. Ung thư phổi thứ phát cũng có thể biểu hiện như một tràn dịch màng phổi ác tính.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Các triệu chứng ít gặp nhưng có thể ho, ho ra máu, và những trường hợp tiến triển thì có khó thở. Các triệu chứng thường liên quan đến vị trí của khối u tiên phát.

Xét nghiệm

Chẩn đoán ung thư phổi thứ phát thường dựa vào sự xác định ung thư phổi tiên phát. Các xét nghiệm chẩn đoán tùy theo đó là loại ung thư tiên phát nào: ngực, giáp trạng; tinh hoàn, tiền liệt. Nên chụp tia X vú nếu tiền sử bệnh hay khám thực thể không phát hiện được khối u tiên phát thì nên chú tâm vào phổi, lấy mẫu mô bằng cách soi phế quản, sinh thiết bằng kim hay mở lồng ngực để chẩn đoán mô học suy đoán ra ung thư tiên phát. Đôi khi, xét nghiệm tế bào dịch màng phổi hay sinh thiết màng phổi có thể phát hiện chẩn đoán. Tìm tế bào trong đờm ít giá trị. Nếu tổn thương phổi đơn độc phát hiện được ở người ung thư ngoài phổi đã biết, hầu hết có thể chẩn đoán đó là ung thư phổi tiên phát. Sarcoma và u hắc sắc tố là ngoại lệ đối với qui luật này. Chỉ chừng 3% mọi nốt phổi đơn độc cắt bỏ là các di căn đơn độc.

Chẩn đoán hình ảnh

Chụp X quang lồng ngực thường thấy nhiều đám đông đặc hình cầu có bờ sắc nét. Kích thước các tổn thương di căn từ vài mm (đông đặc thể kê) tới kích thưâc lớn hơn. Gần như tất cả có đường kính dưới 5 cm. Tổn thương thường hai bên, khu trú ở màng phổi hay dưới màng phổi và thường ở vùng đáy phổi. Hình tạo hang có thể nghĩ đến ung thư tế bào có vảy tiên phát, hình vôi hóa nghĩ đến sarcoma xương. Chụp X quang lồng ngực thông thường không nhạy cảm bằng CT trong việc phát hiện di căn phổi. Chẩn đoán phân biệt bằng X quang các nốt phổi nhiều loại bao gồm phải phân biệt dị dạng động - tĩnh mạch phổi, các áp xe phổi, nhiễm khuẩn u hạt, bệnh sarcoid, các nốt dạng thấp và bệnh, u hạt Wegener.

Sự lan tỏa qua đường bạch mạch và nốt phổi đơn độc ít khi là biểu hiện X quang của ung thư phổi thứ phát.

Điều trị

Khi đã chẩn đoán được là ung thư phổi thứ phát (thường bằng sinh thiết kim qua da hay sinh thiết xuyên phế quản) thì phải điều trị ung thư tiên phát và mọi biến chứng phổi của nó. Cắt bỏ nốt phổi đơn độc thường thận trọng ở bệnh nhân có ung thư ngoài phổi hiện có hay đã có trước. Cắt bỏ một hay nhiều di căn phổi khi mở lồng ngực hay cắt giữa xương ức là khả thi ở một số ít bệnh nhân đã được lựa chọn cẩn thận có sarcoma hay carcinoma các loại (ngực, tinh hoàn, đại tràng, thận, đầu và cổ). Cắt bỏ ngoại khoa chì nên làm nếu ung thư tiên phát đã được giải quyết, nếu bệnh nhân không có nguy cơ khi mổ xẻ, nếu mọi khối u di căn có thể cắt bỏ được, nếu các biện pháp không phẫu thuật vô hiệu, nếu không có bất kỳ di căn ở nơi nào khác trên cơ thể. Các chống chỉ định tương đối của cất bỏ các di căn phổi là: (1) u hắc sắc tố ác tính, (2) phải cắt bỏ lá phổi, (3) xâm nhiễm màng phổi, (4) có đồng thời 2 hay nhiều di căn. Tỷ lệ sống qua 5 năm của ung thư phổi thứ phát điều trị ngoại khoa là 20 - 35%.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh do mycobacteria không phải lao

Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Viêm màng phổi

Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.

Viêm mạch phổi và bệnh u hạt

Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.

Ung thư trung biểu mô màng phổi

Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.

Giảm thông khí phế nang tiên phát

Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.

Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản

Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.

Tràn dịch màng phổi

Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.

Nhiễm protein phế nang phổi

Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.

Tăng áp lực động mạch phổi

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Tắc đường hô hấp

Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Tổn thương phổi do tia xạ

Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.

Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick

Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Các bệnh phổi kẽ

Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.

Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng

Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Viêm tắc tiểu phế quản

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.