Nốt phổi đơn độc

2016-10-10 01:20 PM

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Nốt phổi đơn độc là một tổn thương phổi có bờ sắc nét, hình tròn hay hình bầu dục (đường kính tới 5 cm, các tổn thương rộng hơn gọi là các "khối") bao quanh bởi mô phổi lành. Có thể tạo hang ở giữa, vôi hóa hay có các tổn thương bao quanh ("vệ tinh"). Chụp X quang để lọc loại ung thư trong cộng đồng không nhằm phát hiện nốt phổi đơn độc nhưng khi phát hiện được thì có giá trị quan trọng. Chừng 25% các trường hợp carcinoma phế quản, biểu thị như các nốt phổi đơn độc, tỷ lệ sống 5 năm của carcinoma phế quản, phát hiện dưới dạng này đạt 50% cao hơn tỷ lệ sống 5 năm của ung thư phổi nói chung tới 10 - 15%.

Trong các loạt phẫu thuật, chừng 60% các nốt phổi đơn độc là các tổn thương lành tính, 40% là ác tính. Các u hạt nhiễm khuẩn chiếm hầu hết các tổn thương lành tính trong khi ung thư phổi tiên phát chiếm hơn 3/4 các nốt phổi đơn độc ác tính. Các nốt phổi đơn độc đôi khi là biểu hiện di căn của các u tiên phát khác. Xác định tổn thương là lành hay ác tính trưóc mổ quan trọng hơn là nguyên nhân chính xác của chúng.

Một tổn thương hầu như chắc chắn là lành tính nếu thời gian nhân đôi dưới 30 ngày hay trên 500 ngày hay nếu tổn thương vôi hóa (loại trung tâm, "đám" hay phiến calci). Các yếu tố để chẩn đoán lành tính là tuổi trẻ, không có triệu chứng, kích thước nhỏ (đường kính < 2 cm), bờ mỏng khi chụp CT. Có các tổn thương vệ tinh nhưng các tiêu chuẩn đã nói trên phải đánh giá đúng. Các nốt phổi đơn độc ác tính đôi khi có triệu chứng, khuynh hướng này ở người trên 45 tuổi, thường nốt rộng hơn 2 cm, thường có bờ không xác định, hiếm khi vôi hóa. Dạng điển hình của các di căn phổi đơn độc là các bờ nhẵn hay có múi, ở ngoại vi, ở thùy dưới và không có các tổn thương vệ tinh.

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm. Nếu kết qủa dương tính phải soi phế quản hay sinh thiết bằng kim. Tìm tế bào trong đờm hiếm khi chẩn đoán được ác tính khi các nốt nhỏ hay ở ngoại vi phổi. Xét nghiệm X quang, so sánh với các phim cũ vô cùng quan trọng. CT đặc biệt giúp ích. CT cắt lớp mỏng là phương pháp được ưa thích để phát hiện vôi hóa trong nốt. Nếu không có các triệu chứng bất thường, các dấu hiệu bất thường, các xét nghiệm đơn giản (đếm hồng bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu, phân tích nước tiểu) gợi đến một ung thư ngoài phổi thì không cần tìm kiếm ung thư tiên phát trong cơ thể. Không cần chọc hút bằng kim qua da mọi nốt phổi đơn độc, ít khi nó thay đổi phương cách trị liệu sau đó và thường cho âm tính giả. Ngoài ra nếu tiền sử bệnh, khám thực thể và các xét nghiệm, điện quang cho thấy bệnh nhân cần phẫu thuật thì soi phế quản ống mềm trước khi mổ với mục đích định giai đoạn là không cần thiết.

Điều trị

Các bước quan trọng trong việc xử trí nốt phổi đơn độc như sau: (1) Xem lại kỹ X quang phổi; (2) So sánh với phim X quang trước đó; (3) Nắm chắc tiền sử bệnh và hoàn tất khám thực thể; (4) Hoàn tất các khám nghiệm X quang bổ sung như CT nếu cần; (5) Thông báo cho bệnh nhân các phát hiện và với sự tham gia của bệnh nhân, chọn lựa giải pháp tốt nhất trong 4 giải pháp sau: "chờ đợí với sự cảnh giác", soi phế quản ống mềm, hút bằng kim qua da và cắt bỏ. Về nguyên tắc chung mà nói mọi nốt phổi đơn độc ở bệnh nhân trên 35 tuổi phải coi là có khả năng ác tính và nên cắt bỏ trừ phi tổn thương lành tính vôi hóa điển hình hay ổn định trên phim X quang trong 2 năm chờ đánh giá sau này ("chờ đợi với sự cảnh giác") nói chung không phù hợp nếu tổn thương không vôi hóa hay tổn thương không ổn định.

Các dấu hiệu chỉ thị rõ ràng là chẩn đoán lành tính hoặc có chống chỉ định mổ sẽ ủng họ cho điều trị bảo tồn. Mở lồng ngực thăm dò hay trong một số trường hợp soi lồng ngực nên làm càng sớm càng tốt sau khi phát hiện được nốt phổi đơn độc. Soi lồng ngực có video trở nên ngày càng phổ thông là một phương cách chính xác và an toàn nên làm trước khi mở lồng ngực, cắt bỏ các hốt phổi đơn độc. Các biến chứng và tử vong của thủ thuật này ít hơn so với của mở lồng ngực.

Bài viết cùng chuyên mục

Giảm thông khí phế nang tiên phát

Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Lao phổi: chẩn đoán và điều trị

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.

Ung thư phổi thứ phát

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.

Tràn dịch màng phổi

Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.

Viêm phổi

Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Bệnh xơ nang phổi

Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Hội chứng tăng thông khí

Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.

Viêm phế nang xơ nguồn gốc ẩn

Điều trị gồm các biện pháp hỗ trợ, thở thêm oxy và corticosteroid. Corticosteroid thường chỉ định cho các bệnh nhân có các triệu chứng tăng dần hay chức năng phổi suy giảm.

Tăng áp lực động mạch phổi

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.

Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng

Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Tắc đường hô hấp

Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.

Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi

Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.

Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản

Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.