Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

2016-10-22 03:48 PM

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu để chẩn đoán

Tiền sử nhồi máu phổi hay hệ thống.

Trụy hô hấp.

Các thâm nhiễm phổi hai bên.

Thiếu oxy máu nặng không tiến triển tốt khi điều trị bằng oxy bổ sung.

Áp lực giường mao mạch phổi bình thường.

Nhận định chung

Hội chứng trụy hô hấp cấp (Acute respiratory distress syndrome - ARDS, còn gọi là hội chứng trụy hô hấp ở người lớn) biểu thị sự hô hấp cấp theo sau một tổn thương phổi hay hệ thống; nó đặc trưng bởi trụy hồ hấp, các thâm nhiễm hai bên phổi, thiếu oxy máu, các phổi không giãn nở và áp lực giường mao mạch phổi bình thường (dưới 18mmHg). ARDS có thể sau một loạt các sự kiện lâm sàng thảm khốc. Các yếu tố nguy cơ thường gặp của AR.DS là nhiễm khuẩn, hít phải các chất trong dạ dày, sốc, đụng giập phổi, chấn thương ngoài lồng ngực, hít phải độc chất, sắp chết đuối và truyền máu nhiều lần. Khoảng 1/3 bệnh nhân AẸDS đầu tiên có hội chứng nhiễm khuẩn. Các cytokin cận viêm (ví dụ yếu tố hoại tử khối u, interleukin 1) được các tế bào đại thực bào và các tế bào lympho bị kích thích giải phóng ra có vẻ là then chốt trong tổn thương phổi. Dù các cơ chế của tổn thương phổi thay đổi theo các nguyên nhân gây ra, tổn thương tế bào nội mạc mạch và các tể bào biểu mô phế nang (loại phế bào I) là chung nhất trong ARDS bất kể nguyên nhân nào. Tổn thương các tế bào này làm tăng tính thấm mạch máu và bất hoạt chất diện hoạt, cả hai điều đó dẫn đến phù kẽ và phù phổi phế nang và xẹp phế nang.

Các phát hiện lâm sàng

ARDS đặc trưng bởi sự khởi phát rất nhanh khó thở sâu, thường xảy ra 12 - 48 giờ sau trị liệu đầu tiên, thở khó nhọc, nhịp thở nhanh, co rút liên sườn, nghe phổi có tiếng lép bép. Chụp X quang phổi có các thâm nhiễm lan tỏa hay từng đám hai bên phổi đầu tiên là kẽ sau nhanh chóng chuyển thành phế nang, các đặc điểm này không thấy có ở các góc sườn hoành và có trong khoảng 80% các trường hợp. Tĩnh mạch vùng phía trên của phổi xung huyết (đảo dòng) cũng ít gặp. Kích thước tim bình thường, tràn dịch màng phổi nhỏ hoặc không có. Thiếu oxy máu rõ rệt không đáp ứng với điều trị oxy bổ sung, dấu hiệu chứng tỏ nối tắt biểu hiện rõ. Hầu hết bệnh nhân ARDS có các tạng đều suy đặc biệt là thận, gan, ruột, hệ thần kinh trung ương và hệ tim mạch.

Chẩn đoán phân biệt

Từ khi ARDS là một hội chứng về lâm sàng và sinh lý hơn là một bệnh đặc hiệu, khái niệm về chẩn đoán phân biệt không được áp dụng một cách chặt chẽ. Phù phổi ("do tim") có tính thấm mao mạch bỉnh thường phải được loại trừ, vì điều trị đặc hiệu trường hợp này có hiệu qủa. Có thể đo áp lực giường mao mạch phổi bằng một ống thông động mạch phổi có phao, dùng ống thông Swan - Ganz thường dùng thì đừng e ngại trong ARDS.

Bảng. Các rối loạn chọn lọc liên quan với ARDS

 

Các tổn thương hệ thống

Chấn thương           .

Nhiễm khuẩn huyết.

Viêm tụy.

Sốc.

Truyền máu nhiều lần.

Đông máu rải rác nội mạch.

Bòng.

Các thuốc

+ Các thuốc gây mễ            .

+ Aspirin.

+ Chlordiazepoxid.

+ Phenylbutazon.

+ Colchicin.

+ Ethchlorvynol.

+ Hydrochlorothiazid.

+ Paraldehyd            .

+ Lidocain.

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối.

Nối tắt phối tim.

Nghẽn khí tĩnh mạch.

Tổn thương đầu.

 

Các tổn thương phổi

Nghẽn mạch do huyết khối, mỡ hay nước ối.

Lao kê.

HÍt phải các chất chứa trong dạ dày.

Viêm phổi lan tỏa.

+ Do virus.

+ Mycoplasma (Legionnella pneumophila).

+ Pneumocystis.

Gần chết đuối.

HÍt hơi độc

+ Nitrogen dioxyd.

+ Chlor.

+ Sultur dioxid.

+ Ammoniac.

HÍt khói.

Độc tính của oxy.

Các đụng giập phổi.

Tia xạ.

Độ cao.

Bị treo cổ.

Phối nở lạị

Phòng bệnh

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa. Tiêm tĩnh mạch methylprednisolon không phòng được ARDS dù cho sớm cho các bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn hay sốc nhiễm khuẩn.

Điều trị

Điều trị ARDS phải gồm có xác định được và điều trị đặc hiệu các bệnh nguyên nhân (ví dụ nhiễm khuẩn). Chăm sóc trợ giúp tích cực để bù đắp cho sự giảm chức năng nghiêm trọng của hệ thống hô hấp đi kèm với ARDS. Điều trị trợ giúp hầu hết phải đặt ống nội khí quản, thở máy. Dùng áp lực cuối thì thở ra dương tính (PEEP) cải thiện được sự cung cấp oxy ở bệnh nhân ARDS nhưng không ảnh hưởng đến điều kiện đã gây ra PEEP không nên dùng một cách thường qui. Mức thấp nhất của PEEP để có thể cung cấp đủ oxy phối hợp với một FiO2 chấp nhận được dùng cho bệnh nhân. Mức FiO2 thấp nhất có thể được để giữ PaO2 trên 60 mmHg hay SaO2 trên 90% nên được sử dụng. Các mức PEEP cao có thể cải thiện PO2 máu động mạch nhưng làm suy giảm cung lượng tim và giảm sự phân phát oxy. Cung lượng tim nên được theo dõi liên tục bằng ống thông động mạch phổi pha loãng nhiệt khi muốn biết sự vận chuyển oxy trong đại tuần hoàn (tính qua cung lượng tim và hàm lượng oxy trong máu động mạch) hoặc thăng bằng về dịch của bệnh nhân. Cung lượng tim giảm khi dùng PEEP có thể được cải thiện bằng cách giảm mức PEEP hoặc dùng các thuốc co thắt mạch (ví dụ dopamin); truyền dịch để tăng khối lượng nên cẩn thận vì có thể gây phù phế nang.

Nâng cao áp lực mao mạch phổi gây phù phổi do tăng tính thấm mao mạch, do đó mục tiêu của truyền dịch là giữ áp lực giường mao mạch phổi ở mức thấp nhất có thể được phù hợp với cưng lượng tim. Nên dùng các dung dịch muối nếu cần bổ sung khối lượng tuần hoàn. Nếu áp lực giường mao mạch phổi tăng nên dùng lợi niệu để giảm bớt khối lượng dịch trong lòng mạch. Truyền hồng cầu để giữ hematocrit trên 25%, duy trì hàm lượng oxy máu động mạch.

Cung cấp oxy cho bệnh nhân ARDS đôi khi được cải thiện bằng cảch lật bệnh nhân nằm ngửa sang tư thế nằm sấp.

Cung cấp oxy bằng tuần hoàn ngoài cơ thể, PEEP, corticosteroid và prostaglandin E1 cũng không cải thiện được tỷ lệ sống. Trị liệu corticosteroid có thể tốt cho bệnh nhân ARDS do viêm phổi do chiếu xạ và có lẽ trong hội chứng nghẽn mỡ mạch. Tuy nhiên ở bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn và ARDS tiêm tĩnh mạch methylprednisolon đã chứng tỏ gây trở ngại cho sự đảo ngược bệnh của ARDS và tăng tỷ lệ tử vong. Nên cho kháng sinh phổ rộng nhanh chóng nếu nghi có nhiễm khuẩn.

Điều trị mới gồm bổ sung chất diện hoạt, kháng thể đơn clon với yếu tố hủy hoại u, chất đối kháng của cảm thụ quan interleukin - 1 tái tổ hợp của người, các chất ức chế bạch cầu như pentoxifylline, thông khí cơ học theo cách mới, điều trị bằng hít thở nitric oxid, loại CO2 bằng tuần hoàn ngoài cơ thể.

Tiến triển và tiên lượng

Tỷ lệ tử vong của ARDS là trên 50%. Nếu ARDS có nhiễm khuẩn kèm theo, tử vong có thể tới 90%. Nguyên nhân tử vong chính trong ARDS là suy các tạng ngoài phổi thường do nhiễm khuẩn. Thời gian sống trung bình khoảng 2 tuần. Hầu hết người sổng sót là không có triệu chứng trong ít tháng dù môt số có bất thường về cung cấp oxy, khả năng khuếch tán cơ học phổi.

Bài viết cùng chuyên mục

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan

Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Tăng áp lực động mạch phổi

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.

Bệnh xơ nang phổi

Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.

Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng

Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.

Thở không khí ô nhiễm

Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.

Tổn thương phổi do tia xạ

Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Viêm mạch phổi và bệnh u hạt

Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Các bệnh phổi kẽ

Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Lao phổi: chẩn đoán và điều trị

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị

Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Ung thư phổi thứ phát

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Các khối u lành tính của phổi

Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.

Giãn phế quản

Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.

Viêm khí phế quản cấp

Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.

Nhiễm protein phế nang phổi

Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản

Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.