- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch
Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch
Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Viêm phổi ở người bị tổn thương miễn dịch có thể gây ra bởi vi khuẩn, mycobacteria, nấm, động vật đơn bào, giun, virus nhưng không phải tất cả các thâm nhiễm phổi ở người bị bệnh là do nhiễm khuẩn. Các qúa trình không do nhiễm khuẩn như phù phổi, phản ứng thuốc, nhồi máu phổi, tiềm ẩn bệnh ác tính, viêm phổi do tia xạ có thể giống hệt như nhiễm khuẩn. Mặc dù bất kỳ yếu tố gây bệnh nào cũng có thể gây viêm phổi ở người bị bệnh, song có hai công cụ lâm sàng giúp người thầy thuốc thu hẹp chẩn đoán phân biệt. Thứ nhất là kiến thức về sự khiếm khuyết miễn dịch tồn tại ở bên dưới: các typ đặc hiệu của khiếm khuyết về nhiễm dịch dễ gây các nhiễm khuẩn riêng biệt ví dụ các khiếm khuyết về miễn dịch dịch thể chủ yếu dễ gây các nhiễm khuẩn vi khuẩn trong đó kháng thể đóng vai trò quan trọng trong khi các khiếm khuyết trong miễn dịch tế bào dễ gây nhiễm virus, nấm, mycobacteria và động vật đơn bào. Giảm bạch cầu trung tính và chức năng bạch cầu hạt không hoàn hảo trong các bệnh như ung thư bạch cầu cấp, dùng thuốc điều trị hóa chất và dị sản tủy xương dễ gây nhiễm tụ cầu vàng, nấm aspergillus, trực khuẩn gram âm và nấm candida. Chụp X quang phổi cũng giúp chẩn đoán phân biệt được sáng tỏ. Các thâm nhiễm lan tỏa thường thấy trong viêm phổi do P. Carinii hay do virus, các nhiễm khuẩn và nhiễm nấm kết hợp một cách đặc hiệu với các thâm nhiễm khu trú thời gian của qúa trình nhiễm khuẩn cũng giúp cho tìm ra nguyên nhân viêm phổi ở người tổn thương miễn dịch. Một viêm phổi xảy ra rất nhanh là có thể do nhiễm khuẩn trong khi đó một viêm phổi âm ỉ có lẽ thích hợp hơn là nghĩ đến do virus, nấm, động vật đơn bào, nhiễm lao. Viêm phổi xảy ra trong vòng 2 - 4 tuần sau ghép nghĩ tới do vi khuẩn là hợp lý nhất trong khi nếu xảy ra nhiều tháng hoặc ngay hôm sau khi ghép thường là do nhiễm P. carinii, virus (CMV hay các loại khác), nấm (aspergillds và các loại khác).
Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng và để có thể khỏi phải làm các phương phảp chẩn đoán tốn tiền và gây tổn thương. Một mẫu đờm đầy đủ thường khó có, khi đó qui nạp đờm trở nên cần thiết. Cần cố lấy đờm.
Hay gặp trường hợp là đánh giá thông thường không nhận biết được nguyên nhân gây bệnh. Khi đó nhà lâm sàng buộc phải vừa bắt đầu điều trị thuốc kháng khuẩn đồng thời tiến hành các thủ thuật gây chảy máu như soi phế quản, chọc hút lồng ngực hoặc sinh thiết phổi mở. Rửa phế nang - phế quản phổi bằng soi phế quản sợi quang mềm là một phương pháp an toàn và hiệu quả để lấy chất xuất tiết ở phổi cho xét nghiệm vi sinh học. Nó có ít nguy cơ gây chảy máu hơn chải tế bào và sinh thiết qua phế quần. Rửa phế nang - phế quản đặc biệt phù hợp cho chẩn đoán viêm phổi do P. carinii ở bệnh nhân AIDS và thực tế đạt tới 90 - 97%.
Xét nghiệm đờm khạc tìm P. carinii là cách thay thế rửa phế nang - phế quản vì rẻ hơn và không phải xâm nhập vào cơ thể. Độ nhạy của xét nghiệm tìm P. carinii trong đờm thay đổi từ 28% đến 92% và tùy thuộc kinh nghiệm, số mẫu bệnh phẩm được xét nghiệm và phương pháp thực hiện. Sự lựa chọn cách tiến hành xử lý phải dựa vào mức độ nặng của nhiễm khuẩn ở phổi, bệnh cơ bản, các nguy cơ điều trị kinh nghiệm, có chuyên gia tại chỗ và kinh nghiệm làm thủ thuật. Sinh thiết phổi mở được coi là một thủ thuật chuẩn để chẩn đoán thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch nhưng lựa chọn phải có so sánh cân nhắc tới một thực tế là thông tin thu được hiếm khi có tác động lên kết quả cuối cùng. Hơn nữa, chỉ có được chẩn đoán đặc hiệu ở khoảng hai phần ba số trường hợp đã được sinh thiết, vì thế thường hay được điều trị theo kinh nghiệm đặc biệt khi tỷ lệ “nguy cơ / có lợi” của phương pháp sinh thiết phổi là cao.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng
Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.
Ung thư phổi thứ phát
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.
Nhiễm protein phế nang phổi
Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.
Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi
Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.
Suy hô hấp cấp
Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Viêm màng phổi
Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.
Các hội chứng chảy máu phế nang
Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.
Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản
Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.
Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi
Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.
Viêm mạch phổi và bệnh u hạt
Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.
Các hội chứng hít sặc ở phổi
Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.
Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị
Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.
Các rối loạn thở liên quan đến ngủ
Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.
Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan
Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao
Các khối u trung thất
CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.
Bệnh do mycobacteria không phải lao
Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.
Tắc đường hô hấp
Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.
Viêm khí phế quản cấp
Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.
Lao phổi: chẩn đoán và điều trị
Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.
Nốt phổi đơn độc
Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.
Tăng áp lực động mạch phổi
Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.
Hít phải khói
Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.
Tràn dịch màng phổi
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Viêm phế nang xơ nguồn gốc ẩn
Điều trị gồm các biện pháp hỗ trợ, thở thêm oxy và corticosteroid. Corticosteroid thường chỉ định cho các bệnh nhân có các triệu chứng tăng dần hay chức năng phổi suy giảm.