- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng
- Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin
Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thiếu hụt vitamin đơn thuần ít gặp hơn là thiếu hụt nhiều vitamin củng với thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng. Mặc dù bất kỳ nguyên nhân nào của thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng đều có thể dẫn đến thiếu hụt đồng thời vitamin, nhưng hầu hết các trường hợp như vậy đều đi kèm với giảm hấp thu, nghiện rượu, dùng dược phẩm, thẩm phân máu, dinh dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hóa, có sở thích kỳ quặc về ăn uống, hoặc có rối loạn chuyển hóa bẩm sinh.
Các hội chứng thiếu hụt vitamin thường xuất hiện từ từ. Các triệu chứng thường không đặc hiệu và khám thực thể hiếm khi giúp cho chẩn đoán sớm. Hầu hết các dấu hiệu thực thể đặc trưng xuất hiện muộn trong diễn biến của hội chứng. Những dấu hiệu thực thể đặc trưng khác như viêm lưỡi, viêm môi gặp trong thiếu hụt nhiều vitamin nhóm B. Những bất thường như vậy sẽ gợi ý là có thiếu hụt dinh dưỡng nhưng không chỉ ra được cụ thể chất nào bị thiếu.
Mặc dù là tương đối dễ trong điều chỉnh bằng chế độ ăn hỗn hợp được khuyến cáo hàng ngày, nhưng nhiều người Mỹ đã dùng các chế phẩm bổ sung vitamin có thể phổ biến hơn những hội chứng thiếu hụt, đặc biệt là hội chứng thừa vitamin A, D, B6. Những đòi hỏi về lợi ích sức khỏe rõ rệt của những chế phẩm bổ sung này, nhất là khi dùng những liều lớn đều chưa được chứng minh.
Một số vitamin có thể được dùng một cách công hiệu như thuốc. Các dẫn xuất của vitamin A được dùng để điều trị trứng cá nang, và gần đây hơn là trường hợp da nhăn nheo. Niacin có hiệu quả với tăng lipid huyết. Những rối loạn chuyển hóa vitamin bẩm sinh cũng cần những liều dược lý học các vitamin.
Vitamin B6 (pyridoxin) thực sự là nhóm các chất liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình chuyển hóa trung gian. Những chất này bao gồm pyridoxin, pyridoxal, pyridoxamin và các ester 5 - phosphat của chúng. Vì là coenzym chính trong quá trình chuyển hóa các acid amin nên pyridoxal 5 - phosphat là chất quan trọng nhất. Pyridoxal phosphat cũng cần để tổng hợp nhân hem.
Biểu hiện lâm sàng thiếu hụt vitamin B6
Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu. Nhiều rối loạn chuyển hóa bẩm sinh và các hội chứng do pyridoxin khác, nhất là thiếu máu do pyridoxin còn chưa rõ do thiếu hụt vitamin nhưng thường đáp ứng với những liều cao vitamin.
Thiếu hụt vitamin B6 dẫn tới hội chứng lâm sàng tương tự như trong thiếu hụt các vitamin nhóm B khác, bao gồm loét miệng, viêm lưỡi, viêm môi, yếu mệt và dễ kích thích. Thiếu hụt nặng có thể dẫn tới bệnh thần kinh ngoại vi, thiếu máu và co giật.
Chẩn đoán thiếu hụt vitamin B6
Có thể xác định chẩn đoán thiếu hụt vitamin B6 bằng việc đánh giá pyri - doxal phosphat trong máu. Mức bình thường là trên 50 ng/mL.
Điều trị thiếu hụt vitamin B6
Thiếu hụt vitamin B6 có thể được điều trị có hiệu quả bằng các chế phẩm bổ sung vitamin B6 đường uống. Liều dùng là 10 - 20 mg/ngày thường là đủ, mặc dù một số bệnh nhân đang dùng thuốc khác làm cản trở chuyển hóa pyridoxin có thể cần dùng liều cao tới 100 mg/ngày. Rối loạn chuyển hóa bẩm sinh và các hội chứng do pyridoxin thường cần tới liều 600 mg/ngày.
Nên kê đơn vitamin B6 theo thường lệ cho những bệnh nhân đang dùng các thuốc (như isoniazid) làm gián đoạn chuyển hóa pyridoxin để ngăn ngừa sự thiếu hụt vitamin B6. Điều này đặc biệt đúng cho những bệnh nhân nhiều tuổi, ở nông thôn nghèo, và nghiện rượu; những nhóm người này thường có chế độ ăn ít vitamin B6.
Ngộ độc vitamin B6
Bệnh thần kinh cảm giác, đôi khi không thể hồi phục xảy ra ở những bệnh nhân dùng những liều lớn vitamin B6. Mặc dù hầu hết bệnh nhân ngộ độc do dùng 2g hoặc hơn/ngày, một số bệnh nhân chỉ dùng 200 mg/ngày.
Bài viết cùng chuyên mục
Chán ăn tâm thần
Có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin C
Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện.
Nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể
Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi, giới, kích thước cơ thể, trong quá trình mang thai và cho con bú.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa trong hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa là hay gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp là dễ xử trí.
Lời khuyên về ăn uống, tương tác chất dinh dưỡng và thuốc
Lượng thức ăn tính như một khẩu phần được đưa ra ở tên dưới. Nếu bạn cần ăn phần lớn hơn thì tính hơn một khẩu phần. Ví dụ, suất ăn tối bằng mỳ ý có thể tính là 2 - 3 khẩu phần tinh bột.
Chế độ ăn hạn chế chất dinh dưỡng trị liệu
Chế độ ăn 1000 mg muối cần hạn chế thêm nữa những thức ăn thường ngày. Hiện nay có sẵn các thức ăn có natri thấp đặc biệt để giúp cho chế độ ăn như vậy.
Ăn vô độ tâm thần
Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần.
Suy dinh dưỡng protein năng lượng
Suy dinh dưỡng protein năng lượng xảy ra như là hậu quả của sự thiếu hụt tương đối hoặc tuyệt đối năng lượng và protein.
Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu
Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày.
Chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn trị liệu
Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin E
Thiếu hụt vitamin E trên lâm sàng phổ biến nhất là do kém hấp thu nặng, không có betalipoprotein huyết di truyền hoặc ở trẻ em là bệnh gan ứ mật mạn tính, tịt đường mật hoặc xơ hóa nang.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Riboflavin
Riboflavin, coenzym flavin mononucleotid và flavin adenin dinucleotid, tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử khác nhau và là thành phần thiết yếu của nhiều enzym khác.
Theo dõi bệnh nhân trong quá trình hỗ trợ dinh dưỡng
Những bệnh nhân có cân bằng nitơ dương tính có thể được tiếp tục chế độ hiện tại của họ, những bệnh nhân có cân bằng nitơ âm tính thì nên tăng vừa phải lượng calo và protein đưa vào, sau đó đánh giá lại.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Niacin
Về mặt tiền sử, thiếu hụt niacin xảy ra ở những nơi khi mà ngô là nguồn năng lượng chính. Hiện tại, thiếu hụt niacin phổ biến hơn do nghiện rượu.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.
Béo phì
Béo phì được định nghĩa như là tình trạng có quá nhiều mô mỡ. Sự xác định chính xác mô mỡ cần những kỹ thuật tinh vi nhưng lại chưa phổ biến trong thực tiễn lâm sàng.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin thiamin
Vai trò chính của thiamin là tiền chất của thiamin pyrophosphat, một coenzym cần cho một số phản ứng sinh học quan trọng, cần thiết cho quá trình oxy hóa carbonhydrat.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin A
Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ.
Hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân
Chú ý tới sở thích của bệnh nhân, thời gian của những bữa ăn, các thủ thuật chẩn đoán, sử dụng thuốc, và việc sử dụng các thức ăn do gia đình và bạn bè mang tới bệnh viện.
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Chất béo đường tĩnh mạch, cũng có thể được dùng, cho những bệnh nhân nhận hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm.
Nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân
Hầu hết dung dịch đường tiêu hóa trộn sẵn đều cung cấp đầy đủ các vitamin, các khoáng chất cũng như lượng calo đầy đủ.
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các dung dịch chứa các protein thủy phân hoặc các acid amin kết tinh có thành phần chất béo không đáng kể được gọi là dung dịch cơ bản vì các chất dinh dưỡng đa lượng.