- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng
- Rối loạn chuyển hóa Vitamin A
Rối loạn chuyển hóa Vitamin A
Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thiếu hụt vitamin đơn thuần ít gặp hơn là thiếu hụt nhiều vitamin củng với thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng. Mặc dù bất kỳ nguyên nhân nào của thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng đều có thể dẫn đến thiếu hụt đồng thời vitamin, nhưng hầu hết các trường hợp như vậy đều đi kèm với giảm hấp thu, nghiện rượu, dùng dược phẩm, thẩm phân máu, dinh dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hóa, có sở thích kỳ quặc về ăn uống, hoặc có rối loạn chuyển hóa bẩm sinh.
Các hội chứng thiếu hụt vitamin thường xuất hiện từ từ. Các triệu chứng thường không đặc hiệu và khám thực thể hiếm khi giúp cho chẩn đoán sớm. Hầu hết các dấu hiệu thực thể đặc trưng xuất hiện muộn trong diễn biến của hội chứng. Những dấu hiệu thực thể đặc trưng khác như viêm lưỡi, viêm môi gặp trong thiếu hụt nhiều vitamin nhóm B. Những bất thường như vậy sẽ gợi ý là có thiếu hụt dinh dưỡng nhưng không chỉ ra được cụ thể chất nào bị thiếu.
Mặc dù là tương đối dễ trong điều chỉnh bằng chế độ ăn hỗn hợp được khuyến cáo hàng ngày, nhưng nhiều người Mỹ đã dùng các chế phẩm bổ sung vitamin có thể phổ biến hơn những hội chứng thiếu hụt, đặc biệt là hội chứng thừa vitamin A, D, B6. Những đòi hỏi về lợi ích sức khỏe rõ rệt của những chế phẩm bổ sung này, nhất là khi dùng những liều lớn đều chưa được chứng minh.
Một số vitamin có thể được dùng một cách công hiệu như thuốc. Các dẫn xuất của vitamin A được dùng để điều trị trứng cá nang, và gần đây hơn là trường hợp da nhăn nheo. Niacin có hiệu quả với tăng lipid huyết. Những rối loạn chuyển hóa vitamin bẩm sinh cũng cần những liều dược lý học các vitamin.
Vitamin A (retinol) là một alcohol có trọng lượng phân tử cao, được ăn vào dưới dạng tiền vitamin hoặc được tổng hợp từ các carotenoid thực vật, đặc biệt là P- caroten. Các đồng phân (isomer) và dẫn xuất của retinol thường được gọi lầ các retinoid. Vitamin A cần thiết cho chức năng võng mạc bình thường và có vai trò quan trọng nhưng chưa rõ ràng trong quá trình tăng trưởng và biệt hóa tế bào, nhất lả tế bào biểu mô. Vitamin A cũng giúp liền vết thương bình thường. Nguồn thức ăn chủ yếu có vitamin A là rau sẫm màu.
Bởi vì có vai trò trong quá trình biệt hóa tế bào nên vitamin A được coi là có vai trò trong phòng ngừa ung thư. Vai trò của các retinoid trong hóa dự phòng ung thư đang được nghiên cứu mạnh mẽ. Tiền vitamih, β - caroten có thể có vai trò quan trọng hơn trong ngăn ngừa ung thư và bệnh tim do ưu điểm có hoạt tính chống oxy hóa của nó.
Biểu hiện lâm sàng thiếu hụt vitamin A
Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù. Ở Mỹ, thiếu hụt vitamin A thường do các hội chứng kém hấp thu mở hoặc lạm dụng các thuốc tẩy dầu khoáng và hay gặp nhất ở người nhiều tuổi và sống ở vùng ngoại ô nghèo.
Quáng gà là triệu chứng sớm nhất. Khô kết mạc và xuất hiện những vệt trắng nhỏ ở kết mạc (vệt Bitot) là những dấu hiệu sớm. Loét và hoại tử giác mạc (nhuyễn giác mạc), thủng, viêm nội nhãn và mù là nhưng biểu hiện muộn. Khô và tăng sừng hóa ở da, mất vị giác cũng có thể gặp.
Chẩn đoán thiếu hụt vitamin A
Những bất thường của sự thích nghi với bóng tôi gợi ý mạnh mẽ đến thiếu hụt vitamin A. Mức huyết thanh dưới giới hạn bình thường (30 - 65 mg/dL) thường gặp trong thiếu hụt tiến triển.
Điều trị thiếu hụt vitamin A
Quáng gà, chậm liền vết thương và các dấu hiệu khác của thiếu hụt giai đoạn đầu có thể được điều trị hiệu quả bằng 30 000 IU vitamin A/ngày, kéo dài trong 1 tuần. Thiếu hụt nặng có tổn thương giác mạc thì cần dùng tới 20 000 IU/kg, trong ít nhất là 5 ngày. Những tác dụng chống oxy hóa của β - caroten có thể đạt được bằng bổ sung 25 000 - 50 000 IU β - caroten.
Ngộ độc vitamin A
Dùng quá nhiều β - caroten (caroten huyết) dẫn đến da nhuốm màu vàng - da cam nhưng là lành tính. Những thay đổi ở da thường rõ nhất ở lòng bàn tay và lòng bàn chân trong khi củng mạc vẫn còn màu trắng (phân biệt với hoàng đảm). Những liều lớn β - caroten về mặt khác là an toàn.
Nhưng dùng quá nhiều vitamin A (sử dụng quá liều vitamin A) có thể gây độc hoàn toàn. Ngộ độc mạn tính thường xảy ra khi có sự tiêu hóa hàng ngày những liều trên 50 000 đơn vị và kéo dài hơn 3 tháng. Những biểu hiện sớm bao gồm da khô có vẩy, rụng tóc, loét miệng, phì đại xương (hoặc lồi xương), chán ăn và nôn. Tăng calci huyết có thể được ghi nhận. Những dấu hiệu nghiêm trọng hơn bao gồm có tăng áp lực nội sọ với phù gai thị, đau đầu, giảm nhận thức, và gan to, đôi khi tiến triển đến xơ gan. Ngộ độc cấp có thể do uống những liều lớn vitamin A như dùng thuốc quá liều hoặc ăn gan gấu Bắc cực. Những biểu hiện bao gồm buồn nôn, nôn, đau bụng, đau đầu, phù gai và ngủ lịm.
Có thể chẩn đoán xác định bằng tăng mức vitamin A huyết thanh. Cách thức điều trị duy nhất là ngừng sử dụng vitamin A từ chế độ ăn. Hầu hết các triệu chứng và dấu hiệu cải thiện rất nhanh.
Bài viết cùng chuyên mục
Chán ăn tâm thần
Có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin
Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin C
Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ.
Theo dõi bệnh nhân trong quá trình hỗ trợ dinh dưỡng
Những bệnh nhân có cân bằng nitơ dương tính có thể được tiếp tục chế độ hiện tại của họ, những bệnh nhân có cân bằng nitơ âm tính thì nên tăng vừa phải lượng calo và protein đưa vào, sau đó đánh giá lại.
Ăn vô độ tâm thần
Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần.
Nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể
Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi, giới, kích thước cơ thể, trong quá trình mang thai và cho con bú.
Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu
Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày.
Chế độ ăn hạn chế chất dinh dưỡng trị liệu
Chế độ ăn 1000 mg muối cần hạn chế thêm nữa những thức ăn thường ngày. Hiện nay có sẵn các thức ăn có natri thấp đặc biệt để giúp cho chế độ ăn như vậy.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin thiamin
Vai trò chính của thiamin là tiền chất của thiamin pyrophosphat, một coenzym cần cho một số phản ứng sinh học quan trọng, cần thiết cho quá trình oxy hóa carbonhydrat.
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Chất béo đường tĩnh mạch, cũng có thể được dùng, cho những bệnh nhân nhận hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Niacin
Về mặt tiền sử, thiếu hụt niacin xảy ra ở những nơi khi mà ngô là nguồn năng lượng chính. Hiện tại, thiếu hụt niacin phổ biến hơn do nghiện rượu.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin E
Thiếu hụt vitamin E trên lâm sàng phổ biến nhất là do kém hấp thu nặng, không có betalipoprotein huyết di truyền hoặc ở trẻ em là bệnh gan ứ mật mạn tính, tịt đường mật hoặc xơ hóa nang.
Lời khuyên về ăn uống, tương tác chất dinh dưỡng và thuốc
Lượng thức ăn tính như một khẩu phần được đưa ra ở tên dưới. Nếu bạn cần ăn phần lớn hơn thì tính hơn một khẩu phần. Ví dụ, suất ăn tối bằng mỳ ý có thể tính là 2 - 3 khẩu phần tinh bột.
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các dung dịch chứa các protein thủy phân hoặc các acid amin kết tinh có thành phần chất béo không đáng kể được gọi là dung dịch cơ bản vì các chất dinh dưỡng đa lượng.
Béo phì
Béo phì được định nghĩa như là tình trạng có quá nhiều mô mỡ. Sự xác định chính xác mô mỡ cần những kỹ thuật tinh vi nhưng lại chưa phổ biến trong thực tiễn lâm sàng.
Chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn trị liệu
Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Riboflavin
Riboflavin, coenzym flavin mononucleotid và flavin adenin dinucleotid, tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử khác nhau và là thành phần thiết yếu của nhiều enzym khác.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.
Nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân
Hầu hết dung dịch đường tiêu hóa trộn sẵn đều cung cấp đầy đủ các vitamin, các khoáng chất cũng như lượng calo đầy đủ.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa trong hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa là hay gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp là dễ xử trí.
Hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân
Chú ý tới sở thích của bệnh nhân, thời gian của những bữa ăn, các thủ thuật chẩn đoán, sử dụng thuốc, và việc sử dụng các thức ăn do gia đình và bạn bè mang tới bệnh viện.
Suy dinh dưỡng protein năng lượng
Suy dinh dưỡng protein năng lượng xảy ra như là hậu quả của sự thiếu hụt tương đối hoặc tuyệt đối năng lượng và protein.