- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng
- Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu
Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu
Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những chế độ ăn trị liệu đặc hiệu cơ thể được lập ra để tạo điều kiện cho xử trí y học các bệnh thường gặp nhất. Trong hầu hết các trường hợp, tư vấn với thầy thuốc chuyên khoa dinh dưỡng là cần thiết để lập ra và thực hiện những thay đổi chính trong chế độ ăn. Người thầy thuốc cần làm quen với những chỉ định cho chế độ ăn đặc hiệu và thành phần cơ bản của chế độ ăn để tạo thuận lợi cho việc tham khảo và tăng tối đa sự thực hiện của bệnh nhân. Chế độ ăn trị liệu là mọi quá trình khó thực hiện và không phải tất cả bệnh nhân đều có thể hợp tác đầy đủ. Đề nghị bệnh nhân ghi lại chế độ ăn trong 3 - 5 ngày có thể giúp hiểu được sự vận chuyển ruột của bệnh nhân.
Những chế độ ăn trị liệu có thể được chia thành 3 nhóm: 1. chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn; 2. chế độ ăn hạn chế hoặc thay đổi thành phần thức ăn; và 3. chế độ ăn bổ sung thành phần thức ăn.
Chế độ ăn nhiều chất xơ
Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày. Bằng chứng dịch tễ học gợi ý rằng những ai tiêu thụ lượng chất xơ lớn hơn sẽ có tỷ lệ mới mắc các bệnh đường tiêu hóa thấp hơn, bao gồm cả viêm túi thừa và ung thư đại tràng. Hầu hết các tác giả hiện nay đều khuyên dùng nhiều chất xơ hơn trong chế độ ăn để duy trì sức khỏe.
Chế độ ăn nhiều chất xơ (20 - 25g/ngày) cũng thường được áp dựng trong xử trí nhiều loại rối loạn dạ dày ruột khác nhau đặc biệt là hội chứng ruột kích thích và viêm túi thừa tái phát. Chế độ ăn giàu chất xơ cũng có thể được áp dụng để làm giảm đường máu ở những bệnh nhân đái tháo đường và làm giảm mức cholesterol ở những bệnh nhân tăng cholesterol huyết. Những chế độ ăn như vậy bao gồm nhiều hoa quả tươi và rau tươi, ngũ cốc nguyên dạng (lứt), đậu và các loại hạt, các sản phẩm làm từ cám. Với một số bệnh nhân bổ sung hạt mã đề bọ chét (2 thìa cà phê/ngày) hoặc cám tự nhiên (1/2 cốc/ngày) có thể là thích hợp hơn.
Chế độ ăn giàu kali
Chế độ ăn bổ sung kali được sử dụng rộng rãi nhất để bù cho kali bị mất do các thuốc lợi niệu. Mặc dù mất kali có thể được ngăn ngừa phần nào bằng việc sử dụng những liều thấp hơn thuốc lợi niệu, đồng thời hạn chế natri, và dùng các thuốc lợi niệu không thải kali, nhưng một số bệnh nhân vẫn cần bổ sung kali để ngăn ngừa giảm kali máu. Chế độ ăn giàu kali có thể cũng có ảnh hưởng hạ áp trực tiếp. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ chứa khoảng 3g (80 mEq) kali mỗi ngày. Chế độ ăn giàu kali thường có 4,5 - 7g (120 - 180 mEq) kali mỗi ngày.
Hầu hết các loại quả, rau, và nước ép của chúng đều có nhiều kali. Cũng có thể cung cấp kali bổ sung bằng chất thay thế muối chứa kali (tới 20 mEq trong nữa thìa cà phê) hoặc kali Chlorid trong dung dịch hoặc viêm nang, nhưng chế phẩm này hiếm khi cần thiết nếu các phương pháp trên được tiến hành để ngăn ngừa sự mất kali và bổ sung kali từ chế độ ăn.
Chế độ ăn giàu calci
Bổ sung calci vào chế độ ăn hiện được khuyên dùng để ngăn ngừa loãng xương sau mãn kinh, ngăn ngừa và điều trị tăng huyết áp, ngăn ngừa ung thư đại tràng. Mặc dù bằng chứng trong mỗi trường hợp là sơ bộ nhưng các tác giả khuyên dùng 1g calci mỗi ngày cho hầu hết những người trưởng thành và 1,5 g/ngầy cho phụ nữ sau mãn kinh. Chế độ ăn của người Mỹ hiện nay là xấp xỉ 700 mg/ngày.
Các sản phẩm sữa không có chất béo và ít chất béo là nguồn calci chính. Những bệnh nhân không dung nạp lactose không thể dùng các sản phẩm sữa dạng lỏng nhưng có thể dung nạp các sản phẩm sữa ngoài dạng lỏng như format và sữa chua. Rau lá xanh và cá hộp có cả xương cũng chứa hàm lượng calci cao, mặc dù cá hộp rât nhiều natri.
Bài viết cùng chuyên mục
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Chất béo đường tĩnh mạch, cũng có thể được dùng, cho những bệnh nhân nhận hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm.
Hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân
Chú ý tới sở thích của bệnh nhân, thời gian của những bữa ăn, các thủ thuật chẩn đoán, sử dụng thuốc, và việc sử dụng các thức ăn do gia đình và bạn bè mang tới bệnh viện.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin thiamin
Vai trò chính của thiamin là tiền chất của thiamin pyrophosphat, một coenzym cần cho một số phản ứng sinh học quan trọng, cần thiết cho quá trình oxy hóa carbonhydrat.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa trong hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa là hay gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp là dễ xử trí.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin
Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Riboflavin
Riboflavin, coenzym flavin mononucleotid và flavin adenin dinucleotid, tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử khác nhau và là thành phần thiết yếu của nhiều enzym khác.
Béo phì
Béo phì được định nghĩa như là tình trạng có quá nhiều mô mỡ. Sự xác định chính xác mô mỡ cần những kỹ thuật tinh vi nhưng lại chưa phổ biến trong thực tiễn lâm sàng.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.
Chế độ ăn hạn chế chất dinh dưỡng trị liệu
Chế độ ăn 1000 mg muối cần hạn chế thêm nữa những thức ăn thường ngày. Hiện nay có sẵn các thức ăn có natri thấp đặc biệt để giúp cho chế độ ăn như vậy.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Niacin
Về mặt tiền sử, thiếu hụt niacin xảy ra ở những nơi khi mà ngô là nguồn năng lượng chính. Hiện tại, thiếu hụt niacin phổ biến hơn do nghiện rượu.
Lời khuyên về ăn uống, tương tác chất dinh dưỡng và thuốc
Lượng thức ăn tính như một khẩu phần được đưa ra ở tên dưới. Nếu bạn cần ăn phần lớn hơn thì tính hơn một khẩu phần. Ví dụ, suất ăn tối bằng mỳ ý có thể tính là 2 - 3 khẩu phần tinh bột.
Theo dõi bệnh nhân trong quá trình hỗ trợ dinh dưỡng
Những bệnh nhân có cân bằng nitơ dương tính có thể được tiếp tục chế độ hiện tại của họ, những bệnh nhân có cân bằng nitơ âm tính thì nên tăng vừa phải lượng calo và protein đưa vào, sau đó đánh giá lại.
Nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân
Hầu hết dung dịch đường tiêu hóa trộn sẵn đều cung cấp đầy đủ các vitamin, các khoáng chất cũng như lượng calo đầy đủ.
Chán ăn tâm thần
Có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát.
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các dung dịch chứa các protein thủy phân hoặc các acid amin kết tinh có thành phần chất béo không đáng kể được gọi là dung dịch cơ bản vì các chất dinh dưỡng đa lượng.
Nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể
Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi, giới, kích thước cơ thể, trong quá trình mang thai và cho con bú.
Suy dinh dưỡng protein năng lượng
Suy dinh dưỡng protein năng lượng xảy ra như là hậu quả của sự thiếu hụt tương đối hoặc tuyệt đối năng lượng và protein.
Chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn trị liệu
Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin C
Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin A
Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin E
Thiếu hụt vitamin E trên lâm sàng phổ biến nhất là do kém hấp thu nặng, không có betalipoprotein huyết di truyền hoặc ở trẻ em là bệnh gan ứ mật mạn tính, tịt đường mật hoặc xơ hóa nang.
Ăn vô độ tâm thần
Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần.