- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng
- Chán ăn tâm thần
Chán ăn tâm thần
Có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Rối loạn ý niệm về hình dạng cơ thể và cực kỳ lo sợ trở nên béo.
Giảm cân dẫn đến trọng lượng cơ thể dưới 15% cân nặng lý tưởng.
Ở phụ nữ, không có liên tiếp 3 chu kỳ kinh nguyệt.
Nhận định chung
Chán ăn tâm thần bắt đầu từ những năm giữa tuổi thanh niên và đầu tuổi trưởng thành. 90% bệnh nhân là nữ giới, hầu hết ở tầng lớp kinh tế xã hội trung và thượng lưu. Chẩn đoán dựa trên sụt cân dẫn đến trọng lượng cơ thể dưới 15% trọng lượng lý tưởng, ý niệm về cơ thể lệch lạc, sự tăng cân hoặc mất quyền kiểm soát ăn nhiều, và ở phụ nữ không có liên tiếp ít nhất 3 chu kỳ kinh nguyệt. Những bệnh nhân khác hoặc bệnh tâm lý có thể giải thích cho sự chán ăn và sụt cân phải được loại trừ.
Tỷ lệ mắc hiện nay của chán ăn do nguyên nhân thần kinh là lớn hơn những gợi ý trước đây. Ví dụ ở rochester, minnesota, tỷ lệ mắc trong 100000 người dân ước tính là 270 đối với nữ giới và 22 đối với nam giới. Nhiều thiếu nữ khác cũng có những biểu hiện của rối loạn mà không có sụt cân nghiêm trọng.
Nguyên nhân của chán ăn tâm thần còn chưa rõ. Mặc dù, có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát. Hầu hết các tác giả đều bênh vực nguồn gốc tâm thần nguyên phát, nhưng không có giả thuyết nào giải thích cho tất cả các trường hợp. Bệnh nhân điển hình xuất thân từ gia đình mà các thành viên có định hướng về thành công và mục tiêu phấn đấu cao. Mối quan hệ giữa các cá nhân trong gia đình có thể không đủ hoặc tiêu cực. Bệnh nhân thường bị chi phối và lo lắng thái quá về sự mảnh mai và phù hợp thể chất, và là nhân vật trung tâm của cuộc đàm luận trong gia đình quanh những vấn đề ăn uống. Có một thuyết cho rằng sự từ chối ăn của bệnh nhân là một nỗ lực để lấy lại sự kiểm soát cơ thể bất chấp sự kiểm soát của cha mẹ. Sự không bằng lòng của bệnh nhân để sống với "cơ thể trưởng thành” cũng có thể tiêu biểu cho sự từ chối trách nhiệm của người trưởng thành và sự liên can của những mối quan hệ cá nhân. Bệnh nhân thường cầu toàn trong hành vi và bộc lộ những đặc trưng nhân cách ám ảnh. Có thể có trầm cảm hoặc lo lắng rõ rệt.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Về mặt lâm sàng, những bệnh nhân chán ăn do nguyên nhân thần kinh có thể bộc lộ sự gầy mòn nghiêm trọng hoặc có thể phàn nàn là sợ lạnh hoặc táo bón. Vô kinh hầu như luôn có. Có thể có nhịp tim chậm, hạ huyết áp, và hạ thân nhiệt ở những trường hợp nặng. Khám phát hiện thấy mất mô mỡ, da khô và có vẩy, tăng lông tơ. Cũng có thể có to tuyến mang tai và phủ.
Các xét nghiệm
Những dấu hiệu xét nghiệm rất đa dạng, nhưng có thể gồm thiếu máu, giảm bạch cầu, những bất thường về điện giải và tăng BUN, creatinin huyết thanh. Mức cholesterol thường tăng. Những bất thường về mặt nội tiết bao gồm giảm các hormon hoàng thể (LH) và hormon kích thích nang noãn (FSH) và giảm đáp ứng của LH với hormon gây giải phóng LH.
Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán có thể là khó vì nhiều yếu tố xã hội và văn hóa thông thường thúc đẩy và duy trì hành vi chán ăn. Nó phụ thuộc vào sự xác định những biểu hiện hành vi hay gặp và loại trừ các rối loạn y học có thể giải thích cho sự sụt cân.
Những biểu hiện hành vi cần cho chẩn đoán bao gồm việc rất sợ trở nên béo phì, rối loạn ý niệm về hình dạng cơ thể, sụt cân ít nhất 25% và từ chối vượt quá cân nặng bình thường tối thiểu.
Chẩn đoán phân biệt bao gồm các rối loạn chuyển hóa và nội tiết như suy toàn bộ tuyến yên, bệnh Addison, cường giáp, và đái tháo đường; các bệnh dạ dày - ruột như bệnh Crohn vả bệnh sprue; các nhiễm trùng mạn tính và ung thư như lao và u lympho; và những rối loạn hệ thần kinh trung ương hiếm gặp như khối u vùng dưới đồi.
Điều trị
Mục đích của điều trị là khôi phục lại trọng lượng cơ thể bình thường và giải quyết những khó khăn tâm lý. Nhập viện có thể là cần thiết. Những chương trình điều trị do những người có kinh nghiệm đưa ra sẽ thành công ở khoảng 2/3 các trường hợp, khôi phục lại cân nặng và chu kỳ kinh nguyệt bình thường. Một nửa số bệnh nhân vẫn tiếp tục chịu những khó khăn với những vấn đề về tâm thần và hành vi ăn uống. Đôi khi những bệnh nhân chán ăn lại phát triển thành béo phì sau điều trị. Khoảng 2 - 6% bệnh nhân sẽ chết vì những biến chứng của bệnh hoặc phạm phải sai lầm là tự sát.
Nhiều phương pháp điều trị được sử dụng nhưng chưa có bằng chứng rõ ràng là tốt hơn những phương pháp khác. Chăm sóc hỗ trợ bởi thầy thuốc và y tá có thể là quan trọng nhất của liệu pháp. Liệu pháp rèn luyện hành vi, liệu pháp tâm lý, và liệu pháp gia đình có thể được áp dụng thử. Một số thuốc bao gồm các thuốc chống trầm cảm ba vòng, các thuốc ức chế tái bắt giữ chọn lọc serotoin và lithium carbonat sẽ có hiệu quả trong một số trường hợp. Những bệnh nhân bị suy dinh dưỡng nặng phải được ổn định về huyết động học và có thể cần cung cấp dinh dưỡng đường tiêu hóa hoặc ngoài đường tiêu hóa. Ăn uống cưỡng ép chỉ nên dành cho những tình huống mà tính mạng bị đe đoạ bởi vì mục đích của điều trị là tái lập lại thói quen ăn uống bình thường.
Bài viết cùng chuyên mục
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa trong hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa là hay gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp là dễ xử trí.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin thiamin
Vai trò chính của thiamin là tiền chất của thiamin pyrophosphat, một coenzym cần cho một số phản ứng sinh học quan trọng, cần thiết cho quá trình oxy hóa carbonhydrat.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Chất béo đường tĩnh mạch, cũng có thể được dùng, cho những bệnh nhân nhận hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Niacin
Về mặt tiền sử, thiếu hụt niacin xảy ra ở những nơi khi mà ngô là nguồn năng lượng chính. Hiện tại, thiếu hụt niacin phổ biến hơn do nghiện rượu.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin A
Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù.
Chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn trị liệu
Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6.
Ăn vô độ tâm thần
Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần.
Nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân
Hầu hết dung dịch đường tiêu hóa trộn sẵn đều cung cấp đầy đủ các vitamin, các khoáng chất cũng như lượng calo đầy đủ.
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các dung dịch chứa các protein thủy phân hoặc các acid amin kết tinh có thành phần chất béo không đáng kể được gọi là dung dịch cơ bản vì các chất dinh dưỡng đa lượng.
Béo phì
Béo phì được định nghĩa như là tình trạng có quá nhiều mô mỡ. Sự xác định chính xác mô mỡ cần những kỹ thuật tinh vi nhưng lại chưa phổ biến trong thực tiễn lâm sàng.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Riboflavin
Riboflavin, coenzym flavin mononucleotid và flavin adenin dinucleotid, tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử khác nhau và là thành phần thiết yếu của nhiều enzym khác.
Suy dinh dưỡng protein năng lượng
Suy dinh dưỡng protein năng lượng xảy ra như là hậu quả của sự thiếu hụt tương đối hoặc tuyệt đối năng lượng và protein.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin E
Thiếu hụt vitamin E trên lâm sàng phổ biến nhất là do kém hấp thu nặng, không có betalipoprotein huyết di truyền hoặc ở trẻ em là bệnh gan ứ mật mạn tính, tịt đường mật hoặc xơ hóa nang.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin
Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin C
Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện.
Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu
Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày.
Hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân
Chú ý tới sở thích của bệnh nhân, thời gian của những bữa ăn, các thủ thuật chẩn đoán, sử dụng thuốc, và việc sử dụng các thức ăn do gia đình và bạn bè mang tới bệnh viện.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ.
Theo dõi bệnh nhân trong quá trình hỗ trợ dinh dưỡng
Những bệnh nhân có cân bằng nitơ dương tính có thể được tiếp tục chế độ hiện tại của họ, những bệnh nhân có cân bằng nitơ âm tính thì nên tăng vừa phải lượng calo và protein đưa vào, sau đó đánh giá lại.
Nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể
Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi, giới, kích thước cơ thể, trong quá trình mang thai và cho con bú.
Lời khuyên về ăn uống, tương tác chất dinh dưỡng và thuốc
Lượng thức ăn tính như một khẩu phần được đưa ra ở tên dưới. Nếu bạn cần ăn phần lớn hơn thì tính hơn một khẩu phần. Ví dụ, suất ăn tối bằng mỳ ý có thể tính là 2 - 3 khẩu phần tinh bột.
Chế độ ăn hạn chế chất dinh dưỡng trị liệu
Chế độ ăn 1000 mg muối cần hạn chế thêm nữa những thức ăn thường ngày. Hiện nay có sẵn các thức ăn có natri thấp đặc biệt để giúp cho chế độ ăn như vậy.