- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng
- Ăn vô độ tâm thần
Ăn vô độ tâm thần
Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Những giai đoạn ăn thả cửa không kiểm soát được.
Cơ chế bù trừ không thích hợp tái diễn để ngăn ngừa tăng cân như tự gây nôn, dùng các thuốc tẩy, các thuốc lợi niệu, nhịn đói hoặc luyện tập quá mức.
Trung bình có ít nhất 2 giai đoạn ăn thả cửa trong một tuần trong ít nhất 3 tháng.
Quá lo lắng về cân nặng và hình dáng cơ thể.
Nhận định chung
Ăn vô độ do nguyên nhân tâm thần là giai đoạn ăn uống không kiểm soát được những lượng lớn thức ăn và sau đó là hành vi bù trừ không thích hợp lặp lại để ngăn ngừa tăng cân như tự gây nôn, dùng các thụôc lợi tiểu hoặc thuốc tẩy, hoặc ăn hạn chế hoặc luyện tập quá mức.
Giống như chán ăn tâm thần, chứng ăn vô độ do nguyên nhân thần kinh chủ yếu gặp ở phụ nữ trẻ, da trắng thuộc tầng lớp trung lưu hay thượng lưu. Chứng ăn vô độ này còn khó phát hiện hơn chán ăn và một số nghiên cứu đã ước tính rằng tỷ lệ hiện mắc cao tới 19% ở thiếu nữ ở lứa tuổi trung đại học.
Những bệnh nhân bị chứng ăn vô độ do nguyên nhân tâm thần điển hình là tiêu thụ những lượng lớn thức ăn giàu năng lượng dễ ăn, thường là kín đáo. Một số bệnh nhân có một vài giai đoạn như vậy trong một ngày và kéo dài vài ngày; một số bệnh nhân khác lại theo kiểu ăn thả cửa thường xuyên và kéo dài. Ăn vô độ thường tiếp sau bằng nôn, dùng các thuốc tẩy hoặc lợi niệu và thường kèm theo cảm giác tội lỗi hoặc trầm cảm. Giai đoạn ăn vô độ có thể được tiếp sau bằng những giai đoạn nhịn đói tự áp đặt. Trọng lượng cơ thể có thể dao động nhưng nhìn chung là trong khoảng 20% của trọng lượng lý tưởng.
Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần. Tuy nhiên, chứng ăn vô độ có tỷ lệ mới mắc béo phì cao hơn trước khi phát bệnh, sử dụng nhiều hơn các thuốc tẩy và lợi niệu, và thường bốc đồng hơn hoặc nhân cách không phù hợp với xã hội. Kinh nguyệt thường vẫn còn.
Có nhiều biến chứng y học như giãn dạ dày và viêm tụy đã được ghi nhận sau những thời kỳ ăn vô độ. Nôn có thể dẫn đến răng xâu, viêm họng, viêm thực quản, bệnh phổi hít và những bất thường về điện giải. Lạm dụng thuốc tẩy và lợi niệu cũng gây ra những bất thường về điện giải hoặc mất nước. Táo bón và trĩ cũng thường gặp.
Điều trị
Điều trị chứng ăn vô độ cần phải chăm sóc hỗ trợ và liệu pháp tâm lý.
Liệu pháp cá nhân nhóm, gia đình và hành vi đều được áp dụng. Các thuốc chống trầm cảm có thể có ích, tốt nhất là dùng fluoxetin hydrochlorid và các thuốc ức chế tái bắt giữ chọn lọc serotonin khác.
Mặc dù bị tử vong do ăn vô độ là hiếm nhưng tiên lượng xa về mặt tâm thần ở những trường hợp ăn vô độ nặng là xấu hơn so với chán ăn do nguyên nhân tâm thần.
Bài viết cùng chuyên mục
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các dung dịch chứa các protein thủy phân hoặc các acid amin kết tinh có thành phần chất béo không đáng kể được gọi là dung dịch cơ bản vì các chất dinh dưỡng đa lượng.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin C
Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện.
Theo dõi bệnh nhân trong quá trình hỗ trợ dinh dưỡng
Những bệnh nhân có cân bằng nitơ dương tính có thể được tiếp tục chế độ hiện tại của họ, những bệnh nhân có cân bằng nitơ âm tính thì nên tăng vừa phải lượng calo và protein đưa vào, sau đó đánh giá lại.
Suy dinh dưỡng protein năng lượng
Suy dinh dưỡng protein năng lượng xảy ra như là hậu quả của sự thiếu hụt tương đối hoặc tuyệt đối năng lượng và protein.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Riboflavin
Riboflavin, coenzym flavin mononucleotid và flavin adenin dinucleotid, tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử khác nhau và là thành phần thiết yếu của nhiều enzym khác.
Nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể
Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi, giới, kích thước cơ thể, trong quá trình mang thai và cho con bú.
Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu
Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày.
Hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân
Chú ý tới sở thích của bệnh nhân, thời gian của những bữa ăn, các thủ thuật chẩn đoán, sử dụng thuốc, và việc sử dụng các thức ăn do gia đình và bạn bè mang tới bệnh viện.
Lời khuyên về ăn uống, tương tác chất dinh dưỡng và thuốc
Lượng thức ăn tính như một khẩu phần được đưa ra ở tên dưới. Nếu bạn cần ăn phần lớn hơn thì tính hơn một khẩu phần. Ví dụ, suất ăn tối bằng mỳ ý có thể tính là 2 - 3 khẩu phần tinh bột.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Niacin
Về mặt tiền sử, thiếu hụt niacin xảy ra ở những nơi khi mà ngô là nguồn năng lượng chính. Hiện tại, thiếu hụt niacin phổ biến hơn do nghiện rượu.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin E
Thiếu hụt vitamin E trên lâm sàng phổ biến nhất là do kém hấp thu nặng, không có betalipoprotein huyết di truyền hoặc ở trẻ em là bệnh gan ứ mật mạn tính, tịt đường mật hoặc xơ hóa nang.
Béo phì
Béo phì được định nghĩa như là tình trạng có quá nhiều mô mỡ. Sự xác định chính xác mô mỡ cần những kỹ thuật tinh vi nhưng lại chưa phổ biến trong thực tiễn lâm sàng.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa trong hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa là hay gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp là dễ xử trí.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin
Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu.
Chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn trị liệu
Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6.
Nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân
Hầu hết dung dịch đường tiêu hóa trộn sẵn đều cung cấp đầy đủ các vitamin, các khoáng chất cũng như lượng calo đầy đủ.
Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Chất béo đường tĩnh mạch, cũng có thể được dùng, cho những bệnh nhân nhận hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm.
Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa
Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin thiamin
Vai trò chính của thiamin là tiền chất của thiamin pyrophosphat, một coenzym cần cho một số phản ứng sinh học quan trọng, cần thiết cho quá trình oxy hóa carbonhydrat.
Rối loạn chuyển hóa Vitamin A
Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù.
Chán ăn tâm thần
Có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát.
Chế độ ăn hạn chế chất dinh dưỡng trị liệu
Chế độ ăn 1000 mg muối cần hạn chế thêm nữa những thức ăn thường ngày. Hiện nay có sẵn các thức ăn có natri thấp đặc biệt để giúp cho chế độ ăn như vậy.