- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp
- Các khối u và những tổn thương giống khối u của xương
Các khối u và những tổn thương giống khối u của xương
Các khối u tiên phát của xương tương đối hiếm gặp so với các khối u thứ phát hoặc di căn, Tuy nhiên chúng có ý nghĩa lớn trên lâm sàng bởi vì có nhiều khả năng ung thư.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Đau dai dẳng, sưng, hoặc tăng nhậy cảm với đau tại một vị trí của xương.
Gẫy xương bệnh lý (tự phát).
Vùng nghi ngờ có tổn thương to ra, biến dạng tăng đậm độ X quang hoặc thấu quang trên phim X quang.
Có bằng chứng tế bào học của khối u xương trên các mẫu sinh thiết.
Nhận định chung
Các khối u tiên phát của xương tương đối hiếm gặp so với các khối u thứ phát hoặc di căn. Tuy nhiên chúng có ý nghĩa lớn trên lâm sàng bởi vì có nhiều khả năng ung thư và bởi vì một số khối u này phát triển rất nhanh và di căn rộng.
Theo cổ điển, các khối u xương được chia thành 2 nhóm là tiên phát và thứ phát, song còn có một số không thống nhất là những khối u nào được gọi là tiên phát đối với hệ thống xương khớp. Những khối u có nguồn gốc trung mô phản ánh cấu trúc xương (như xương, sụn, và mô liên kết) và những khối u phát triển trong xương tạo huyết, thần kinh, mạch máu, tế bào mỡ và những khối u có nguồn gốc ống sống bào thai cần phải được phân biệt với những khối u ác tính thứ phát lan trực tiếp vào xương hoặc qua đường máu. Bởi vì có rất nhiều loại khối u xương, cho nên khó có thể đưa ra một bảng danh sách phân loại đơn giản thoả đáng cho các u xương.
Lâm sàng
Đau xương dai dẳng, xương trở nên to ra, có thể hạn chế vận động của khớp kế cận hoặc gẫy xương tự phát là những dấu hiệu đòi hỏi phải khẩn trương thăm khám lâm sàng, X quang, xét nghiệm và sinh thiết xương. X quang cho biết vị trí, mức độ lan rộng tổn thương và cung cấp một số dấu hiệu đặc trưng gợi ý chẩn đoán đặc hiệu. Những hình ảnh được gọi là cổ điển trên phim X quang của một số khối u (chẳng hạn như hình ảnh lỗ chỗ trong đa u tủy xương, dấu hiệu "tia mặt trời" trong sarcom xương, dấu hiệu "vỏ củ hành" trong sarcom Ewing, mặc dù có ý nghĩa gợi ý song không phải đặc trưng của bệnh. Ngay cả những đặc điểm tế bào học, khi xuất hiện đơn độc, cũng không thể đem lại những thông tin chính xác về quá trình bệnh. Tuổi bệnh nhân, thời gian bị bệnh, vị trí và số lượng xương bị tổn thương và sự có mặt hay vắng mặt của một bệnh lý toàn thân phối hợp cũng như những đặc điểm tế bào học phải được xem xét một cách tổng hợp để có một biện pháp điều trị thích hợp.
Cần phải luôn nghĩ đến những khả năng một tổn thương xương có thể là những bất thường lành tính, bệnh lý ung thư di căn, nhiễm khuẩn (chẳng hạn cốt tủy viêm), tổn thương sau chấn thương hoặc một bệnh xương do chuyển hóa. Nếu khối u xương xuất hiện ở trong hoặc gần khớp, chúng có thể bị nhầm lẫn với các dạng viêm khớp, đặc biệt là viêm một khớp.
Một số khối u xương đặc biệt
Những khối u phát triển từ mô liên kết tạo xương gồm u mô dạng xương và sarcom xương. Những khối u mô dạng xương thường là những khối u lành tính ở trẻ em và người trẻ tuổi, nên phẫu thuật để loại bỏ. Sarcom xương thường xuất hiện ở khớp gối hoặc các xương dài và nên được điều trị bằng phẫu thuật và hóa trị liệu, tỉ lệ sống sót được cải thiện trong những năm gần đây. Sarcom sợi (fibrosarcoma), bắt nguồn từ mô liên kết không tạo xương, và tiên lượng tương tự với những sarcom xương. Những khối u nguồn gốc sụn gồm u nội sụn, u xơ dạng sụn nhầy và sarcom sụn. Xét nghiệm tế bào học để chẩn đoán xác định nhóm khối u này và tiên lượng khi được điều trị thích hợp và phẫu thuật nhìn chung là tốt.
Những khối u xương khác gồm u tế bào khổng lồ (u hủy cốt bào), u nguyên bào sụn và sarcom Ewing. Trong số này, u nguyên bào sụn gần như luôn luôn lành tính. Khoảng 50% bệnh nhân u tế bào khổng lồ là u lành tính, số còn lại có thể là ác tính thật sự hoặc tái phát sau phẫu thuật cắt bỏ. Sarcom Ewing, gặp ở trẻ em, thiếu niên, người lớn trẻ tuổi, có tỉ lệ tử vong 50% cho dù điều trị hóa trị liệu, chạy tia hoặc phẫu thuật.
Điều trị
Mặc dù can thiệp là cần thiết để điều trị một số khối u song cần phải có chẩn đoán chính xác bởi vì sẽ có thể có một tác hại lớn xuất hiện hoặc do điều trị chậm trễ hoặc do những phẫu thuật tận gốc hoặc cắt bỏ hoặc do việc chạy tia không cần thiết.
Bài viết cùng chuyên mục
Hội chứng Sjogren
Viêm kết giác mạc khô do giảm tiết nước mắt, gây nên bởi sự thâm nhiễm tế bào lympho và tương bào vào các tuyến lệ. Triệu chứng gồm nóng rát, ngứa, tiết rỉ mắt và không chảy nước mắt khi khóc.
Viêm khớp do lậu
Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.
Viêm khớp và các bệnh viêm ruột
Trên thực tế, viêm khớp ổn định thì ỉa chảy xuất hiện. Do vậy, bệnh Whiple nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm khớp từng đợt không lý giải được.
Viêm nhiều sụn tái phát
Bệnh thường tiến triển từng đợt, tỷ lệ nam nữ bị bệnh ngang nhau. Sụn sưng, đau trong đợt cấp và hậu quả là trở nên teo nhỏ, gây biến dạng vĩnh viễn. Sinh thiết sụn tổn thương thấy viêm và tiêu sụn.
Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu
Việc sử dụng nội soi ngày càng rộng rãi và những phẫu thuật thay khớp nhân tạo đã làm cho tỉ lệ viêm khớp nhiễm khuẩn tăng lên.
Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV
Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.
Viêm nút đa động mạch
Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.
Bệnh Cryoglobulin huyết
Những bất thường trong xét nghiệm chức năng gan, đau bụng, bệnh tim và bệnh phổi cũng có thể xuất hiện. Chẩn đoán dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt và phản ứng huyết thanh dương tính với cryoglobulin.
Viêm khớp trong bệnh sarcoid
Tuy viêm khớp sarcoid thường kèm theo ban đỏ dạng nốt, song chẩn đoán lại dựa vào sự có mặt của những biểu hiện ngoài khớp khác của bệnh sarcoid.
Hội chứng đau cổ cánh tay
Nguyên nhân đau cổ gồm căng cứng hoặc vẹo cổ cấp hoặc mạn tính, thoát vị nhân nhày đĩa đệm, thoái khớp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp dạng thấp
Bệnh hỗn hợp của mô liên kết
Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.
Bệnh viêm cột sống dính khớp
Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có xu hướng lan dần lên phía đầu, vận động cột sống trở nên hạn chế, mất đường cong sinh lý bình thường của cột sống thắt lưng.
Đau thắt lưng
Thăm khám thực thể cũng rất quan trọng, bởi vì những triệu chứng như sốt, tăng huyết áp, hạch to, có khối u ở bụng, ở khung chậu hay ở trực tràng
Ban xuất huyết Henoch-Schonlein
Đây là một dạng phát ban mà nguyên nhân chưa rõ; đặc trưng cơ bản về mặt giải phẫu bệnh là viêm mạch máu nhỏ. Mặc dù bệnh thường gặp ở trẻ em song người lớn cũng có thể bị.
Hoại tử xương vô khuẩn
Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.
Bệnh co thắt Dupuytren
Co thắt Dupuytren có biểu hiện bằng sự dầy lên của bao cân gan tay dạng nốt hoặc giống như dây thừng ờ một hoặc hai bàn tay và thường ảnh hưởng tới các ngón thứ tư và thứ năm.
Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay
Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.
Lao xương khớp
Hầu hết những nhiễm khuẩn do lao ở Mỹ do vi khuẩn lao người Mycobacterium tuberciilosis gây ra, Nhiễm khuẩn hệ thống xương khớp do sự lan tràn trên đường máu.
Biểu hiện thấp khớp trong ung thư
Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.
Cốt tủy viêm cấp do vi khuẩn sinh mủ
Trong số những bệnh nhân bị các bệnh huyết sắc tố, cốt tủy viêm do vi khuẩn thương hàn thường gặp gấp 10 lần so với những vi khuẩn sinh mủ khác.
Viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.
Bệnh calci hóa sụn và giả gút
Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin
Bệnh thiểu sản xương: bệnh giòn xương
Dạng thứ hai là thiểu sản xương muộn, trong đó gẫy xương và biến dạng xương xuất hiện sau khi đẻ. Xương dòn, dễ gãy là một tiêu chuẩn rõ ràng nhất cho chẩn đoán.
Những chấn thương do chạy nhảy
Những hậu quả không tốt này có thể ngăn chặn bằng những biện pháp đề phòng như áp dụng những bài tập kéo duỗi, đi giầy hợp lí, tránh chạy quá sức và lưu ý kịp thời những sang chấn
Viêm khớp vảy nến
Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.